Phần 28

40 năm nhìn lại những ngày mất Sài Gòn (I)

Nguyễn Văn Lục

Ford75

Trong dip kỷ niệm 40 năm này, người viết đã để thời giờ giúp mọi người Việt di tản nhớ lại mình, nhớ lại những đồng đội, nhớ lại cả một quá khứ vinh quang cũng như tủi nhục. Xin mời đọc.

Lời mở đầu

Có nhiều cách để ghi lại những ngày chót trước khi mất Sài gòn. Có tác giả ghi lại qua các tài liệu sách vở, hoặc người khác qua trải nghiệm sống của mỗi người.

Mỗi cách ghi lại có cái hay và hữu ích của nó.

Riêng bài viết sau đây của tôi chủ yếu dựa trên đa số những bản tin, bài bình luận của các phóng viên, các tác giả ngoại quốc có mặt ở Việt Nam đã viết trong khoảng thời gian hơn một tháng khi mất Sài Gòn.

Những bản tin này thường vắn, gọn cô đọng mang tính chất thông tin nhiều hơn. Nhưng khi chọn lựa viết thành một bài viết dựa trên thứ tự thời gian, người đọc có thể hiểu tận tường diễn tiến các biến cố ấy đã được diễn ra thực sự trên đất nước của mình như thế nào.

Nó có thể thiếu mức độ rung động tình cảm như thương, ghét, giận, buồn. Nhưng bù lại nó khá trung thực và có thể giúp người đọc gạt bỏ được những nhận thức quá khứ nhiều khi do nghe nói.

Trong dip kỷ niệm 40 năm này, người viết đã để thời giờ giúp mọi người Việt di tản nhớ lại mình, nhớ lại những đồng đội, nhớ lại cả một quá khứ vinh quang cũng như tủi nhục. Xin mời đọc.

"Dẫn đầu đoàn diễu hành chống lại các cuộc xung đột Việt Nam có tiến sĩ Benjamin Spock, cao lớn, người đàn ông tóc bạc trắng, và Tiến sĩ Martin Luther King Jr., thứ ba từ bên phải, trong một cuộc diễu hành trên bang St. ở Chicago, Ill., March 25, 1967. Tiến sĩ Spock là đồng chủ tịch của Ủy ban Quốc gia về chính sách hạt nhân Sane. "(AP Photo)

Dẫn đầu đoàn tuần hành chống chiến tranh Việt Nam có bác sĩ Benjamin Spock, cao lớn, người đàn ông tóc bạc trắng, và Tiến sĩ Martin Luther King Jr., thứ ba từ bên phải, trong một cuộc diễn hành trên đường State ở Chicago, Ill., March 25, 1967. Bác sĩ Spock là đồng chủ tịch của Ủy ban Quốc gia về chính sách hạt nhân đúng mực. (AP Photo)

Câu chuyện mở đầu từ nước láng giềng của Việt Nam

Thật sự thì người Việt Nam nói chung ít quan tâm đến tình hình của nước láng giềng Cambodia lắm. Từ Sài gòn sang Cambodia, đường bộ chỉ hơn trăm cây số mà mấy người đã đi qua thăm láng giềng. Quan hệ buôn bán làm ăn, quan hệ du lịch, quan hệ liên quan đến an ninh, đến chiến tranh cũng ít ai quan tâm cho đủ.

Nhưng nay câu chuyện có thể khác. Những gì đang xảy ra, sắp xảy ra ở bên Cambodia cũng là những điềm dự báo thời cuộc cho Việt Nam.

Time is running out | Ngày 7/3/1975

"thời gian là chạy ra 'Đại sứ quán Campuchia cảm thấy mất By SYDNEY H. SCHANBERG New York Times Service PHNOM PENH

Time is running out, Đại sứ quán Mỹ cảm thấy sẽ mất Campuchia. By SYDNEY H. SCHANBERG New York Times Service PHNOM PENH

Đây là một bản tin của hãng AP gửi đi từ Hoa Thạnh Đốn cảnh báo tình hình ở Cambodia xem ra hết sức bi quan. Phóng viên đăng tải tin này với hàng tít Time is running out.

Đó là tựa đề nhạy cảm về tình hình nước bạn láng giềng. Người bi quan nghĩ rằng vận may có vẻ không còn nữa. Tổng thống Ford được coi là càng ngày càng bị lẻ loi, bất lực vì không hy vọng giàn xếp để có được tối thiếu 220 triệu đô la để giúp cho nước Cambodia có thể cầm cự được.

Tổng thống Ford vào tối thứ ba cảnh cáo tuần này, tức ngày 7 tháng 3 rằng nếu không có số tiền đó thì nội trong 10 ngày sắp tới, Cambodia sẽ rơi vào tay cộng sản.

Cảnh cáo như thế mà xem ra Quốc Hội Hoa Kỳ hầu như có vẻ không quan tâm gì.

Cũng theo thông tin của phóng viên Sydney H.Schanberg của tờ New York Times tại Cambodia thì tòa đại sứ Mỹ ở đây đang cố gắng hết sức mình để sau cuộc đầu hàng có thể giải cứu được một số người ra đi một cách an toàn và nhân đạo.

Ông đại sứ Mỹ tại Cambodia, John Gunther Dean, xem ra hết hy vọng vào lời hứa cứu trợ cấp tốc 220 triệu đô la! Không có số tiền đó cũng là một cách chấm dứt chuyện người Mỹ có mặt trong 5 năm cuộc chiến tranh với bọn phiến loạn (bọn Khmer rouge – Khmer đỏ).

Một bên ngay tại nước Mỹ ông Tổng thống Mỹ lo có tiền để cứu trợ khẩn cấp, một bên tòa đại sứ Mỹ tại Cambodia lại lo tính chuyện di tản. Mà như thể hai cái lo đó chẳng dính dáng gì đến nhau cả? Tính tình người Mỹ cũng có cái lạ, họ làm tới cùng cho đến khi không còn chút hy vọng gì!

Cái lo của Cambodia cũng là cái lo của các cấp lãnh đạo miền Nam như Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Cái lo ấy ông Thiệu cũng đã tim đủ cách xoay sở. Ông Thiệu cũng đã gửi tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng sang Mỹ vận động, tìm nguồn tài trợ từ Ngân hàng Thế giới, từ Paris cựu thực dân ở Việt Nam, từ Nhật Bản. Và từ vua dầu lửa Arabia bằng cách gửi đại sứ Vương Văn Bắc đi vay tiền các nước Ả Rập.

Và cái lo cuối cùng không biết làm thế nào, ông tính thế chấp 16 tấn vàng để có tiền mua vũ khí đạn dược! Ông cũng nghĩ xa gần đến việc khai thác dầu hỏa ở Vũng Tàu.

Nghĩ lại trong suốt 21 năm cầm cự với cộng sản, đây là thời gian gay go nhất cho chính thể Đệ nhị Cộng hòa. Gay go không phải tại người, tại kém trí, tại thiếu can đảm mà chỉ tại không có tiền mua súng đạn.

Nếu cứ theo phúc trinh của ông thượng nghĩ sĩ đảng cộng hòa Paul Norton “Pete” McCloskey, Jr. Thì:

Theo Ngũ giác đài thì quân đội VNCH có số quân bằng 3 so với 1 của phía quân đội miền Bắc.

Trong tài khóa 1973-1975, ngay sau khi ký thỏa ước đình chiến Ba Lê, Sài Gòn nhận được 3,98 tỉ tiền viện trợ từ phía Mỹ. Hà Nội chỉ nhận được 1,48 từ phía Tầu cộng và Nga Xô cộng lại.

Xét về mặt hỏa lực, ‘firepower superiority ratio’, cũng kể từ sau Hiệp Định Ba Lê, là 7 so với 1 của phía bên kia. Đấy là chưa kể đến khả năng của không quân Việt Nam.

Vậy thì xem bảng so sánh trên, chả có lý do gì Việt Nam lại thua cuộc. Ông nghị đdảng Cộng hòa Mỹ đưa ra những lý do tinh thần xem ra chẳng thuyết phục được ai cả.

Đó là vì cộng quân dù thua vì ‘outgunned’, ‘outnumbered” nhưng lại hơn về aggressiveness, will và sense of purpose.

Riêng người Việt chúng ta ngày hôm nay cũng nên suy xét về điều này để hiểu rõ ta và địch. Chúng ta đi giầy đánh cộng sản. Họ đi chân đất. Rồi có lúc thằng đi chân đất chạy nhanh hơn thằng đi giầy.

Xem ra tiền không giải quyết được mọi chuyện, nhất là chuyện chiến tranh! Chuyện chiến tranh đôi khi không hẳn là chuyện võ khí mà cần thêm yếu tố con người nữa.

Ngày 5/3/1975. Tin AP Tinh Hình Cambodia trở nên nguy kịch

Theo tin Thông Tấn Xã AP, tình hình chính trị bên Cambodia càng bất ổn và ít hy vọng. Để trả lời cho niềm hy vọng của tuyệt vọng của ông đại sứ Mỹ, bọn phiến loạn tiếp tục pháo kích liên tục vào phi trường và thủ đô Phom Penh.

Trong khi đó, theo John Burns, đặc phái viên của tờ The Journal tại Bắc Kinh, Ieng Sary, một nhân vật cộng sản cao cấp làm trung gian giữa Khmer đỏ và thái tử Sihanouk từng bảo đảm rằng trừ một thiểu sổ nhóm người lãnh đạo của Thống chế Lon Nol, tất cả những người còn lại đều được đối xử một cách nhân đạo.

Vì thế, thái tử Sihanouk nói:

“Khmer đỏ long trọng tuyên bố với toàn thể thế giới rằng họ sẽ không có cảnh tắm máu khi họ vào Phnom Penh, trừ khi bọn chống cộng có sự kháng cự bằng vũ khí. Còn lại, Khmer đỏ sẵn sàng tha thứ cho mọi người, trừ 7 người.

(The Khmer rouge have declared very solemnly before the whole world that they will not make any blood-bath when they enter Phnom Penh unless the anti-communist there resist with weapon. Otherwise, The Khmer rouge are ready to pardon everybody, except seven people.)”

Tin cuối cùng, cũng theo hãng AP, Tổng thống Lon Nol đã yêu cầu Thủ tướng Long Boret giải tán chính phủ. Trung tướng Sosthène Fernandez, Tham mưu trưởng quân đội Cambodia trước tình hình vô phương cứu vãn đã xin từ nhiệm. Nhiều nguồn tin cho hay là chính người Mỹ yêu cầu ông Lon Nol làm điều này.

Sau đó Thủ tướng Long Boret đã tuyên bố là chính phủ của ông đã không thể nào điều hành được nữa. Nhiều vị tỉnh tỉnh trưởng đã thay đổi người mà không có sự đồng ý của Thủ tướng. Nhiều lính Cambodia đã đà ngũ. Và sau khi ông Long Boret xin từ chức thì Tổng thống Lon Nol tức khắc lại chỉ định ông Long Boret lập chính phủ mới.

Thủ tướng Long Boret bọ Khểm Đỏ bắt và xử tử hình ngày 17 tháng Tư, 1975. Nguồn:  executedtoday.com

Thủ tướng Long Boret bọ Khểm Đỏ bắt và xử tử hình ngày 17 tháng Tư, 1975. Nguồn: executedtoday.com

Diễn tiến câu chuyện của nước láng giềng Cambodia xem ra sẽ xảy ra tại Việt Nam không mấy khác chăng?

Hồi chuông báo tử của Cambodia cũng là hồi chuông báo tử cho Việt Nam không bao lâu sau? Lời hứa xạo của bọn Khmer đỏ có khác chi lời hứa của cộng sản Bắc Việt sau này.

Phần tôi, tôi không dám nghĩ tiếp. Tôi vẫn tin tưởng, Việt Nam không phải Cambodia. Bên Cambodia, chính phủ bắt lính ngay cả những trẻ em 13, 14 tuổi. Tình trạng ấy đã không xảy ra như thế ở Việt Nam. Các sĩ quan quân đội VNCH đều được huấn luyện kỹ càng và bài bản.

Từ trước đến nay, binh sĩ VNCH luôn có mấy khi thua! Được thì nhiều, thua thì ít. Tỉ lệ tử vong là một đổi ba, có khi lên đến một đổi năm và đến một đổi mười. Luôn gặt hái được những chiến thắng trong nhiều trận đánh. Các sĩ quan về thành phố nghỉ phép trong thái độ hiên ngang, nhiều khi đến ngang tàng!

Cái oai hùng như thế, cả một thời cuốn hút theo nhiều thế hệ thanh niên.

Cá nhân người viết, nhiều khi đi với bạn bè sĩ quan không khỏi hãnh diện. Họ làm nên giới trẻ một thời.

Ngày 10-3, 1975 | Nay thì đến lượt Việt Nam

Các cuộc tấn công để chiếm Mai Hắc Đế cơ sở ở thị xã Buôn Ma Thuột trong chiến dịch Tây Nguyên, tháng Ba năm 1975. Một nộp ảnh từ Bảo tàng Quốc gia Lịch sử Việt Nam

Cuộc tấn công chiếm Trại Mai Hắc Đế ở thị xã Buôn Ma Thuột trong chiến dịch Tây Nguyên, tháng Ba năm 1975. Một ảnh từ Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam.

Hôm nay ngày 10 tháng ba, 1975, một ngày đáng ghi nhớ, một ngày mở đầu cho những nỗi bất hạnh đổ xụp xuống miền Nam. Cộng sản Bắc Việt với xe tăng và đại pháo đã tấn công Ban Mê Thuột, một tỉnh ở Cao Nguyên Trung Phần. Cộng sản đã rót 10.000 đại pháo vào quận lỵ Đức Lập cách Ban Mê Thuột 30 dặm về phía Bắc và các căn cứ quân sự của tỉnh.

Bản tin của AP chỉ cho biết vắn tắt như thế và cho biết thêm có 8 vị truyền giáo người Mỹ còn bị kẹt ở lại. Và số phận họ được bảo đảm an toàn.

Nghĩ bụng 8 vị truyền giáo dù mạng sống họ cũng quan trọng, nhưng so với số phận con dân miền Nam thì có nghĩa gì?

Nếu tinh từ khi ký hiệp định Ba Lê thì Đức Lập được kể là quận lỵ thứ 13 bị rơi vào tay cộng sản.

Viện trợ và chiến tranh

Chiến tranh thì có gì liên quan đến viện trợ? Vậy mà nay chúng ta mới hiểu một cách chua chát là Viện trợ và Chiến tranh đi đôi với nhau như nước với lửa. Bản tin này cho phép nổi lên trong tôi một thắc mắc, giả dụ không có tiền thì không đánh nhau chăng? Và nếu bớt tiền thì bớt đánh? Bớt nữa thì cho bớt luôn chăng? Có nghĩa là quăng súng, không đánh nữa, muốn ra sao thì ra chăng?

Có cái giá nào cho biết là bao nhiêu thì đánh chăng? Giả dụ nếu không có giá thì ta có thể liệu cơm gắm mắm được chăng? Cha ông ta đã đánh giặc như thế nào? Có bao nhiêu ta đánh bấy nhiêu chăng?

Kèm theo tin này, hãng tin AP cũng cho biết viện trợ Mỹ cho ngoại quốc kể từ khi thế chiến hai chấm dứt đến nay là 164 tỉ đô la! Trong khi đó, CIA phúc trình cho James R. Schlesinger là nếu không có quân viện lập từc thì quân đội VNCH chỉ có thể cầm cự trong vòng một tháng nữa. Tổng thống Ford trong buổi họp Hội Đồng An ninh Quốc Gia yêu cầu Quốc Hội Hoa Kỳ chuẩn chi 722 triệu đô la, số tiền cần thiết để duy trì cuộc chiến này. VNCH đang đứng trên bờ vực thẳm về sự thất bại quân sự. Nhưng ai cũng có thể khẳng định là quân đội miền Nam đang chiến đấu một cách kiên cường với những gì họ có được. Số tiền 722 triệu là để cung cấp 744 đại bác, 466 xe tăng và thiết giáp, 100 ngàn súng cá nhân và 5 ngàn súng đại liên, 11 ngàn súng phóng lựu M. 79, 12 ngàn xe chuyên chở và 120 ngàn tấn bom, đạn đủ loại.

Con số vũ khí viện trợ coi như là lớn lắm! Nhưng nghĩ cho cùng, tiềm năng quân sự của nước Mỹ có thể làm nhiều hơn thế nữa. Người ta còn nhớ khi Mỹ quyết định tham dự thế chiến thư hai, Mỹ lúc đó chỉ có 1800 máy bay. Roosevelt đã quyết định đưa con số ít ỏi 1200 thành 50.000 máy bay một năm. Khi nói Mỹ ở đây là nói tới hai nhân tố, ông Tổng thống Mỹ và Quốc Hội Mỹ. Việc từ chối viện trợ cho Việt Nam không phải từ ông Tổng thống mà đến từ phía Quốc Hội với những người như bà dân biểu Bella Abzug.

Phái đoàn Thượng nghị sĩ có bà Abzug sang Việt Nam

Left to right, Bella Abzug, Gloria Steinem, and Mike Nichols at a rally in Manhattan, May 10, 1975.

Từ trái, Bella Abzug, Gloria Steinem, và Mike Nichols trong một cuộ diến hành ở Manhattan, May 10, 1975.

Bà có tên đầy đủ là Bella Abzug là dân biểu đại diện cho bang Manhattan cùng với Paul Norton “Pete” McCloskey, Jr. Bà và ông “Pete” đều có tiếng là chống chiến tranh Việt Nam. Sự có mặt của bà ở Việt Nam lúc này là một điều bất lợi cho Việt Nam. Chúng ta vẫn muốn chiến đấu. Bà nói không. Tiếng nói không của bà và đồng viện trị giá 722 triệu đô la.

Chúng ta bắt đầu thua từ tòa nhà Quốc Hội Mỹ. Nói thế cũng không sai đâu

Bà sang Việt Nam chẳng đem lại một tin tưởng gì cho ông Thiệu và chính phủ Nam Việt Nam. Sau đó bà và phái đoàn Thượng Viện Hoa Kỳ vào trại Davis gặp phái đoàn cộng sản, bàn về số tù binh Mỹ còn bị Bắc Việt giam giữ, 1.300 người. Phái đoàn cộng sản đã triệu tập 76 nhà báo do họ mời đến. Con số áp đảo với phía nhà báo Mỹ. Buổi họp giữa hai bên lạnh nhạt và đã hẳn chẳng thu được kết quả gì.

Cũng theo nguồn tin của UPI, ông thượng nghị sĩ Hubert Horatio Humphrey Jr. cho hay rằng viện trợ Mỹ chi ra như thế, nhưng Mỹ cũng đã bán ra một số vũ khí cho 69 quốc gia trên thế giới. Số tiền lên đến 8 tỉ, 300 triệu đô la trong tài khóa năm nay.

Bà Abzug về hôm trước hôm sau thì cộng quân tấn công Ban Mê Thuột

Bài diễn văn của Tổng thống Mỹ với những mỹ từ trống rỗng

Theo nguồn tin cũng của AP, Tổng thống Ford sẽ đọc một bài diễn văn ở Đại Học Notre Dame – một đại học mà người ta ghi nhận số sinh viên ngoại quốc gồm hơn 60 quốc tịch khác nhau theo học ở đây – trong đó ông tin tưởng và thúc dục dân chúng Mỹ là nước Mỹ vẫn có khả năng giải quyết những vấn đề nội bộ của nước Mỹ mà không cần quay lưng với thế giới bên ngoài.

Bài diễn văn là nhắn gửi đến Việt Nam hay muốn trấn an và thoa dịu những đồng minh của Mỹ trên thế giới?

Ford khẳng định chắc chắn là vẫn có thể viện trợ quân sự cho Cambodia và Việt Nam.

Bài diễn văn này được đọc với những mỹ từ văn hoa, cao đẹp nhất của một Tổng thống Mỹ dành cho các dân tộc trên thế giới!

Triệu phú Onassis qua đời

Cũng trong ngày hôm nay, như tin xe cán chó ở Việt Nam, ngưới ta được tin ông triệu phú Onassis mới qua đời. Sở dĩ người ta phải nhắc tới cái chết của ông vì ông vốn là chồng của bà quả phụ của Tổng thống Kennedy – bà Jacqueline Lee “Jackie” Kennedy. Tính ra hai người lấy nhau đã được 6 năm rưỡi. Nay ông trở bệnh nặng và đã được đưa từ Thổ Nhĩ Kỳ sang Paris chữa trị từ tháng Hai. Khi ông qua đời, Bà Kennedy đã dành cả thẩy 15 phút để viếng xác ông tại nhà nguyện của nhà thương vào đêm Chủ nhật.

Chẳng hiểu sao viên phóng viên này có dụng ý gì khi cố tình nhắc đến 15 phút viếng thăm của bà góa phụ Onassis? Đây có phải là lúc thích hợp để nói về quyền thừa kế bạc triệu này không?

Theo nguồn tin gia đình thì bà quả phụ Jacqueline Onassis được thừa hưởng chỉ nguyên tiền bán các bức tranh của chồng bà như các bức họa của Gaugin, El Greco, Van Gogh và Picasso ước lượng là 20 triệu đô la.

Hai người con của bà là Caroline và John F. Kennedy, Jr. cũng rời căn nhà ở Nữu Ước ngay vào đêm chủ nhật để sang Paris. Họ cũng được thừa hưởng một gia tài kếch sù, hàng nhiều triệu đô la, mà người cha dượng đã mua các Trust Fund cho họ.

Quên, bài báo có nhan đề không mấy lịch sự đối với bà quả phụ là From Rags to Riches (Từ rách nát phát lên giàu có).

Ngày 16- 3, 1975. Another Dunkirk?(1)

Đó là nhan đề một bài báo của ký giả bình luận gia James M. Markham của tờ New York Times. Làm sao một quân đội hùng mạnh như thế, đã từng chiến thắng trong nhiều trận, đã từng chiến đấu dũng cảm trong 21 năm rút cuộc lại có thể thua trong vài tuần lễ.

Đó là câu hỏi mà nhiều người đã đặt ra và tìm câu trả lời. Làm sao lại có thể rút lui và thua một cách dễ dàng như vậy? Ai trách nhiệm sự thua trận và rút lui này?

Nếu nói xa một chút thì nay Hoa Kỳ, hay nói trắng ra là Kissinger đang dồn mọi nỗ lực cho Trung Đông. Kissinger đã cam đoan là sẽ giải quyết được xung đột giữa Israel-Ả Rập. Và những số tiền rút ra từ viện trợ cho Việt Nam thì nay viện trợ cho Do Thái. Một tỷ rưỡi đô la đã được rót thêm cho Do Thái với số dân chưa tới 6 triệu người?

Người ta cho rằng, ‘There is the possibility that Kissinger might make a new Middle- East peace bid before the mandate – of the Un peacekeeping forces expires on april 25 in the Sinai and at the end of may on the Golan Heights.’

Chọn lựa ưu tiên giữa chiến tranh Việt Nam và cuộc xung đột Trung Đông, Mỹ Kissinger rõ ràng nghiêng về phía một giải pháp cho hòa bình ở Trung Đông. Phải chăng Kissinger là người bán đứng Việt Nam cho cộng sản Bắc Việt trong tháng Tư sắp tới?

Tổng thống Thiệu và trách nhiệm rút quân khỏi Tây Nguyên

Tăng T-54 của Cộng quân tiến vào Ban Mê Thuột. Nguồn: wikiwand.com

Tăng T-54 của Cộng quân tiến vào Ban Mê Thuột. Nguồn: wikiwand.com

Sau khi cộng quân tấn công vào Ban Mê Thuột, người ta nói rằng Tổng thống Thiệu đã có dự định trong đầu về một cuộc tái phối trí. Nay Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đứng trước hai chọn lựa không dễ chọn.

Một, Tổng thống Thiệu muốn duy trì bằng mọi giá, dù là đắt giá (risky move), phải tái chiếm lại Ban Mê Thuột. Nhưng cho đến chiều thứ sáu thì quyết định này xem như bị loại bỏ.

Hai, quyết định rút lui khỏi các vùng Kontum, Pleiku, Ban Mê Thuột, Darlac – một quyết định không kém can đảm – và trong cuộc rút lui này, mang theo vũ khí được chừng nào hay chừng nấy.(2)

Cuộc rút quân khỏi Pleiku ngày 16 tháng này, chỉ sau cuộc tấn công của cộng quân vào Ban Mê Thuột một tuần đã để lại nhiều câu hỏi và nhiều nghi vấn?

Có người cho đây là màn tháu cáy người Mỹ của ông Thiệu.

Tôi không tin như vậy. Không thể mang sự sống chết của binh lính để tháu cáy chính trị. Ông Thiệu vốn là một quân nhân không thể nghĩ hạn hẹp như vậy được.

Có thể ông nghĩ là không có viện trợ thì không thể tiếp tục chiến tranh. Các vị chỉ huy VNCH đã chọn con đường số 7B, một con đường đã bỏ hoang từ sau thời Pháp nên nhiều chỗ như cầu cống, đường xá cần có công binh đi trước để dọn đường, làm cầu. Thế rồi công binh, pháo binh, thiết vận xa, hàng ngàn xe camion chở binh lính, súng ống đạn dược, các lực lượng đặc biệt quân đội các binh chủng, gia đình các quân nhân này và cả dân chúng nữa ước định khoảng 100.000 đến 200.000 người chen lấn nhau mà đi.

Tưởng Ngô Quang Trưởng có viết bài Tại sao tôi bỏ quân đoàn I. Ông cho đó là trách nhiệm của riêng Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.

Tướng Phú muốn tạo sự bất ngờ cho cộng sản, nhưng đó là một tính toán sai lầm; vì dân chúng được tin quân đội rút quân đã vội vã chạy ùa theo. Tình cảnh này làm cho cuộc rút quân thêm chậm trễ và khó khăn.

Yếu tố bất ngờ không còn nữa.

Bình luận của nhà báo Drew Middleton, “President Thieu. Is he fit to lead?”

Trong một bài bình luận của Drew Middleton, bình luận gia của tờ N.Y. Times cho rằng, mặc dầu tinh thần binh sĩ có xuống. Nhưng chỉ trong vòng ba ngày tấn công Ban Mê Thuột, các phóng viên nhận thấy mặc dầu có sự tấn công vũ bão của cộng quân, nhưng người ta không thấy một sự đáp trả đúng mức của các đơn vị quân đội trong khu vực.

Không có dấu hiệu có sự chống cự và chỉ cho thấy sự rút lui một cách hoảng loạn. Các sĩ quan chỉ huy đã bỏ trốn và binh đội còn sót lại thì đầu hàng.

Chắc hẳn việc Ban Mê Thuột mất vào tay cộng sản chỉ sau một ngày giao tranh của binh sĩ VNCH tại Ban Mê Thuột ảnh hưởng tới những quyết định của ông Thiệu một cách sâu xa. Gần như thể, ông ta bị cô lập bởi các phụ tá và cố vấn. Và rồi ông đã tự mình đưa ra những quyết định mà không tham khảo với ai cả (Cho dù có tham khảo tướng Cao Văn Viên và hai tướng thuộc vùng I, vùng II, nhưng ông là người quyết định một mình) và cũng không đưa ra một lời giải thích cũng không đề xướng ra một cuộc rút quân có chuẩn bị kỹ càng.

Người ta tự hỏi ông Thiệu có còn thích hợp để lãnh đạo nữa hay không? Đó là nhan đề bài báo President Thieu, Is he fit to lead?

Trong một buổi họp ở Nha Trang gồm có Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, Thủ tướng Khiêm, tướng Cao Văn Viên, các tướng Tư lệnh vùng như Ngô Quang Trưởng, vùng I, Nguyễn Văn Phú, vùng II. Sau khi nghe tướng Phú thuyết trình về tình trạng Ban Mê Thuột và xin thêm quân. Cả ông Thiệu và ông Khiêm từ chối tăng viện binh vì không có người.(3)

Theo tướng Cao Văn Viên sau này tiết lộ thì đã có đến ba đề nghị rút quân nếu không có viện trợ.(4)

Một thắc mắc nữa không kém quan trọng là ông Nguyễn Văn Thiệu có hỏi ý kiến người Mỹ khi rút quân ra khỏi Tây Nguyên không?

Theo Frank Snepp, ký giả chuyên viên phân tích của CIA ở Saigon, sau này cho biết thì ông Thiệu đã tự ý quyết định một mình mà không hỏi ý kiến người Mỹ. Cũng theo Frank Snepp cho thấy là tinh thần binh sĩ quân đội miền Nam sa sút trầm trong. (Morale in the army was on the verge of collapse).(5)

Việc rút quân như thế cho thấy một thái độ tuyệt vọng của ông Thiệu vào thiện chí của người Mỹ.

Một thái độ tự tử chính trị của một người lãnh đạo quốc gia miền Nam.

Ngay đại sứ Graham Martin cũng ngạc nhiên về quyết định của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Trong bài viết của ông, The attack on Ban Me Thuot and Thieu’s decision to withdraw from the central highland came as a complete surprise to me. […] I don’t know who convinced him of this. But throughout all of this he didn’t tell us any thing.(6)

Sense of doom engulfs Saigon

Tpprng thống Nguyễn Văn Thiệu, tháng 4, 1975. Nguồn: © Bettmann/CORBIS

Tpprng thống Nguyễn Văn Thiệu, tháng 4, 1975. Nguồn: © Bettmann/CORBIS

Chính việc Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cho rút quân đoàn I và đã tạo cái cảnh tượng mà trong một bài viết nhan đề Sense of doom engulfs Saigon, trong đó phóng viên tờ N.Y. Times News Services mô tả tình trạng: The army is mad with fear and panic. It’s all collapsing before our eyes’. ( Quân đội rơi vào tình trạn điên loạn sợ hãi và sụp đổ trước mắt chúng tôi.)

Binh sĩ có làm loạn vì hoảng sợ thì đó không là lỗi của họ. Lỗi là cấp chỉ huy, các tướng lãnh và sĩ quan cao cấp đã không làm tròn trách nhiệm của mình. Mỗi một sĩ quan cao cấp trong ngày 30 tháng Tư phải tự hỏi mình về trách nhiệm trước binh lính, quân đội.

Câu hỏi quan trọng nhất vẫn là tìm hiểu xem Tổng thống Thiệu ra lệnh rút quân mà không tham khảo với người Mỹ!

Theo Frank Snepp tiết lộ, tình báo Mỹ không biết tin về cuộc triệt thoái này. Ngay cả Đại sứ Martin là người có đủ thẩm quyền để được tham khảo về quyết định quan trọng này cũng không hề biết.

Việc rút quân này xem ra có những khuyến điểm sau đây:

Việc rút quân quá vội vã thiếu chuẩn bị. Nếu cần cho công binh đi trước vài ngay san sửa đường, đặt cầu.

Thứ hai, không có kế hoạch để di tản gia đình binh sĩ đi theo. Đến khi họ biết thì dân chúng hốt hoảng chạy theo binh lính, gây trở ngại và làm chậm trễ cuộc rút quân. Tại Phủ Lý, Nam Định, khi người Pháp tính rút quân. Họ đã chuẩn bị cho gia đình các quân nhân đi trước bằng xe camion, sau đó mới đến lượt các quân nhân đi theo. Cuộc rút quân êm thắm vào lúc gần sáng và không bị Việt Minh tấn công, cản đường. Đây đúng là lỗi lầm của tướng Nguyễn Văn Phú.

Ngày 17 tháng ba, 1975. Những giây phút cuối cùng của sự có mặt của người Mỹ ở Phnom Penh

Theo tin AP, ngày 17 tháng ba, tòa đại sứ Mỹ tại Phnom Penh đã cho nhân viên đốt tất cả các tài liệu và chuẩn bị đưa những người Mỹ cuối cùng ra khỏi Cambodia. Và mặc dầu bị pháo kích vào phi trường bằng nhiều quả pháo kích.

Theo nguồn tin của UPI trong một nhan đề bài báo: Airlift resumes to Phnom Penh, foreigners flee cũng viết lại tương tự như hãng AP.

Ngày 20 tháng ba, 1975: South Viet Nam continues to Shrink

Hôm nay là ngày 20 tháng 3, năm 1975, nguồn tin của hãng thông tấn AP với tựa đề S. Vietnam continues to Shrink cho thấy tình trạng miền Nam càng thêm bi quan và có nguy cơ sụp đổ. Ngoài các tỉnh cao nguyên Trung phần đến lượt Huế Quảng Trị, nay có thêm tỉnh Bình Long, chỉ cách phía Bắc, Sài gòn có 60 dặm. Cạnh đó, Phước Long đã bị tràn ngập bởi cộng sản từ hồi tháng giêng. 17.000 dậm vuông đã rơi vào tay cộng sản với số dân là 1.700.000 dân, một phần 10 dân số miền Nam.

Sai Gòn nay phải nuôi thêm số dân cả nửa triệu người từ các nơi kéo về. Thực phẩm khan hiếm kéo vật giá leo thang. Và nhiều nhà đã bắt đầu lo tích trữ gạo, cá khô. Những người có thân nhân hoặc có tiền thì cũng tạm ổn. Còn những người không có thân nhân ở Sài Gòn thì chắc phải tạm trú ở những nơi công cộng.

Gia đình chúng tôi cũng có thêm anh em chạy từ Nhatrang về. Một số bạn bè từ Huế, Nha Trang, Phan Thiết, Quy Nhơn, lâu lắm không có dịp gặp nhau, nay có dịp họp mặt đông đủ.

Nhưng tôi còn nhớ rõ cái cảm giác lúc bấy giờ. Lo thì có lo nhưng vẫn có lý do chủ quan là Sài Gòn không thể nào mất được. Quân đội VNCH còn mạnh lắm.

Cái niềm tin tưởng biến thành cái mà Lewis gọi là thần thoại. Đó là điều mà ký giả Anthony Lewis đã viết một bài nhan đề Myth and Reality.

Mấy học trò cũ ở Nha Trang về vẫn rủ nhau đi ciné, vẫn đi ăn nhậu với mấy người bạn từ xa về.

Mất ở đâu thì mất, Sài Gòn không mất được!

Tôi tin tưởng không bao giờ Mỹ bỏ rơi Việt Nam. Tin tưởng vào những lời tuyên bố trấn an của Tổng thống Ford như thuốc an thần, tin tưởng vào phái đoàn quân sự do tướng Frederick Carlton Weyand với những lời trấn an, tin tưởng vào những tin tức thế giới như, “U.S. Aid decision soon”. những trận đánh oai húng trong quá khứ như trận Quảng Trị 1972, Tết Mậu Thân 1968.

Mỹ đã bỏ ra 150 tỉ đô la và 50.000 xác người Mỹ tử trận ở đây lại không thể có một cố gắng cuối cùng sao?

Thiệu trước công chúng Sài gòn

Nếu có một cuộc thăm dò dư luận về ông Thiệu. Chắc ông chỉ nhận được một lá phiếu ủng hộ ông thì đó là lá phiếu của bà Thiệu.

Kể từ sau quyết định triệt thoái khỏi Tây Nguyên. Dân chúng oán ghét ông không ít.

Sợ bị ám toán, với bản tính đa nghi, ông phải đổi chỗ ở luôn.

Trong buổi nói chuyện với dân chúng Sài gòn vỏn vẹn trong vòng 5 phút, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cho rằng lực lượng quân số của Bắc Việt đông gấp 4 lần quân số của VNCH. Hà Nội đã gửi vào Nam 5 binh đoàn trong số 8 binh đoàn trừ bị.

Sau 5 phút vắn vỏi nói với dân chúng, ông Thiệu vội vàng rời dinh độc lập chui vào chiếc xe Limousine chống đạn (bullet proof limousine) xe hướng về một chỗ ẩn náu riêng, kín đáo của ông gần Hotel Majestic. Tại nơi đây, ông lo ngại về việc ông Kỳ có thể nổi loạn chống lại ông. Bởi vì sáng nay, Kỳ đã công khai yêu cầu ông Thiệu phải từ chức. Sau đó cảnh sát đã bắt vài người trong nhóm của ông Kỳ cùng với ba nhà báo. Nhưng những thành phần thân cận nhất của ông Kỳ thì vẫn không bị đụng tới.

Xem ra việc bắt bớ này chỉ là một đòn cảnh cáo.

Phải nhìn nhận là miền Nam sắp bị chìm, nhưng các vị lãnh đạo xem ra chỉ lo cho bản thân mình.

Sài Gòn có nguy cơ rối loạn như Đà Nẵng

Để bảo đảm trật tự an ninh cho thành phố Sài Gòn, lệnh giới nghiêm là từ 10 giờ đêm thay vì 12 giờ đêm, vì ’because of the present emergency situation and security requirements’. Tin của AP đã loan báo như thế.

Nguồn tin của UPI cho hay, tòa đại sứ Anh tại xứ ‘Chùa Tháp’ đã đóng cửa và quyết định di chuyển toàn bộ nhân viên sứ quan về Sài Gòn.

Quyết định này chẳng biết là một quyết định khôn ngoan hay có tính giai đoạn?

UPI với tựa đề một bản tin ngày 20-3: Lon Nol won’t quit. Mặc dầu có nhiều áp lực đòi ông từ chức để may ra tình trạng có thể khá hơn không? Nhưng nguồn tin trên cho hay Lon Nol nhất định ngồi lại để đối phó với tình hình.

Mặc dầu nói mạnh miệng như vậy, nguồn tin ngoại giao cho hay, ông Lon Nol sẽ chuẩn bị rời Cambodia trong thời gian không bao lâu nữa.

Việc ra đi của ông coi như dấu hiệu sự đầu hàng cộng sản. Thật vậy, 85 phần trăm lãnh thổ Cambodia nay ở dưới quyền kiểm soát của quân phiến loạn cộng sản.

Với tình hình không mấy sáng sủa gì, bị bao vây bởi cộng sản, Phnom Penh phải đầu hàng. Chỉ còn con đường dẫn sang Saigòn, dọc sông Mé Kông là tương đối còn an toàn.

Nhiểu người việt sinh sống tại Cambodia cũng đã tìm cách chạy trốn về Sài Gòn. Nhiều già đình Việt Nam làm ăn khá giả ở Cambodia nay tìm cách chạy sang Việt Nam. Một nơi mà cho đến lúc này được coi là còn an toàn.

Mẹ trẻ ôm con thơ trên chiếc trưc thăng chạy khỏi Tuy Hòa, 22 Thàng 3, 1975 Nguồn: AP Photo/ Nick Ut.

Mẹ trẻ ôm con thơ trên chiếc trưc thăng chạy khỏi Tuy Hòa, 22 Thàng 3, 1975 Nguồn: AP Photo/ Nick Ut.

Indochina, Light goes out

Trong một bài bình luận tổng quát của UPI về tình hình miền Nam: Indochina: Light goes out . Phóng viên cho hay, nếu tính toàn Đông Dương thì nay 75% đất đai đã thuộc về cộng sản và ánh sáng đang đứng về phía họ. Nay thì 50 % các tỉnh miền Trung và Cao Nguyên đã rơi vào tay cộng sản. Người ta còn nhớ vào năm 1968, quân đội VNCH đả truy đuổi những tên cộng sản cuối cùng ra khỏi Huế. Pleiku cũng là nơi mà McNamara đã cho cộng quân biết thế nào là sức mạnh của vũ khí Mỹ. Quảng Trị ngày nào cũng là nơi chôn vùi không biết bao nhiêu bộ độ cộng sản, vào bao nhiêu chết bấy nhiêu.

Vậy mà nay tình trạng hầu như đã đổi khác, vai trò đã đổi.

Ngày 25, tháng ba. Huế thất thủ: Mass execution reported in Hue

Sáng ngày 25, chính quyền loan báo Huế thất thủ.

Quân đội Nam Việt lấp đầy mọi không gian có sẵn trên một con tàu di tản họ từ biển Thuận An, gần Huế, Đà Nẵng như Cộng quân tiến vào tháng Ba, 1975. (AP Photo / Cung)

Quân đội Nam Việt lấp đầy mọi không gian có sẵn trên một con tàu di tản họ từ biển Thuận An, gần Huế, Đà Nẵng như Cộng quân tiến vào tháng Ba, 1975. (AP Photo / Cung)

Thuân An cách Huế chừng 10 dặm, kể từ chiều thứ hai, hàng ngàn người bằng đủ phương tiện đã tìm đến cửa Thuận An. Lính của quân đoàn một chạy cùng với gia đình nhốn nháo không biết thuộc đơn vị nào. Mạnh ai nấy chạy.

Phóng viên Peter Arnett nói đến một biển người ( an ocean of people) đang chờ đợi để được bốc đi khỏ Huế. Có một chiếc tầu đậu ngoài xa cách bờ biển khoảng 500 mét. Nhiều người đã cởi bỏ quần áo tìm cách bơi ra tàu.

Hàng ngàn xe cộ, súng ống đủ loại còn để lại chung quan Huế, làm thế nào có thể chở di hết được? Chắc là sẽ bỏ lại hết để rơi vào tay cộng quân?

Hầu như có một sự bỏ rơi của cấp chính quyền và quân đội trong giờ phút này. Plei ku dã thế, nay Huế cũng vậy. Không thấy có một giới chức cao cấp nào có mặt để chỉ đạo các cuộc trốn chạy này.

Sau này, một số người chạy đến được bãi biển Đà Nẵng, cách Huế 50 dặm. Họ kêu gào, khóc lóc thảm thiết vì lạc mất người thân. Một số lính tráng bơi được ra tầu thủy thì nay không có quần áo, giầy bốt. Phần lớn không có súng.

Đến buổi chiều thứ hai thì có khoảng 3000 người tới Đà Nãng và người ta hy vọng đến đêm và sáng mai thì sẽ có thêm nhiều người hơn. Ngày thứ ba một chiếc tàu có thể chở được 7000 người đã rời Đà Nẵng ra Huế.

Chỉ trong vòng 24 tiếng đồng hồ sau khi tuyên bố Huế thất thủ, vậy mà cờ của Mặt trận giải phóng miền Nam được kéo lên. Trước đây cờ này cũng đã được kéo lên một lần trong vòng hai tháng. 7 năm sau nó lại được kéo lên một lần nữa . Và lần này chắc không phải chỉ hai tháng!

Xa hơn nữa về phía Nam, Chu Lai và và Quảng Ngãi tự động bỏ ngỏ, rút lui.

Sau này, khi được tin Huế thất thủ, phía bên kia cho hay Văn Tiến Dũng đã không kìm giữ được xúc động. khóc và ông đã viết: Tôi đã đốt một điếu thuốc lá mà từ lâu tôi đã bỏ không hút.

Và Văn Tiến Dũng chắc còn phải khóc và hút thuốc nhiều lần nữa. Khóc đến không kịp khóc nữa.

Theo tin của thông tấn xã UPI khi Cộng quân chiếm thị xã Huế. Chúng đả xâm nhập một bót cảnh sát ở ngoại ô thành phố về phía Đông. Theo lời một nhân chứng sau này vào được Saì gòn, ông cũng là một cảnh sát viên và đã chứng kiến 5 sĩ quan cảnh sát cùng một thiếu niên 18 tuổi bị chặn bắt trên bãi biển. Chúng bắt họ xếp hàng và sau đó đã hành quyết tửng người một như giết một con chó.

Những người dân Huế chắc không thể nào quên được cuộc thảm sát ở Huế. Nhưng mãi 18 tháng sau , vào mùa thu 1969, vụ thảm sát Huế mới nổ bùng ra và kết quả cho thấy không phải hàng ngàn mà hàng vài ngàn dân Huế đã bị thảm sát bởi cộng sản.

Huế đối với tôi vẫn là miền đất bất hạnh. Sinh ra ở đâu cũng được nhưng đừng sinh ra ở Huế.

Ngày 26 tháng 3, 1975 Disordely retreat..một cuộc rút quân hỗn loạn

Nay Đà Nẵng trở thành bị cô lập!!

Theo thông tấn xã AP thì đây là một cuộc rút quân hỗn loạn. (Disordely retreat)

Trong một cuộc tháo chạy hỗn loạn thì ai là người anh hùng, ai là kẻ hèn nhát. Thật khó để đưa ra một lời phê phán.

Trước cái chết gần kề, phản ứng của con người có thể là anh hùng và cũng có thể là ngược lại.Vì thế, có một bản tin khác cũng của AP do ký giả Peter O’Loughlin bình luận từ Tuy Hòa như sau:

Trước cái sống và cái chết. Ai cũng chọn cái sống còn. Ai cũng muốn chạy thoát thân. Đó phải chăng là trường hợp dành cho đại tá Lữ Đoàn trưởng, và trung tá Lữ đoàn phó Thủy quân lục chiến mà dưới quyền họ có khoảng 4000 thủy quân lục chiến, đã đào ngũ khi đối diện với quân địch? Tòa án quân sự nào sẽ xử tử hình theo quân luật? Đó là nỗi nhục nào chỉ riêng cho đại tá Lữ đoàn trưởng Thủy Quân lục chiến? Nếu biết rằng sống chết không tùy thuộc vào khả năng của mình thì sẽ phải hành xử như thế nào? Và người ta sẽ dựa vào đâu để sống? Sống hèn hay chết can đảm? Chỗ nào là tình người? Chỗ nào là tình chiến hữu?

Đã có nhiều người bất lực trước những chọn lựa khó khăn đó. Nhưng cũng đã có những người đã chọn lựa thành anh hùng và cũng đã có người chọn lựa sống hèn?

Hay là kết luận cuối cùng vẫn là những người tỵ nạn nếm mùi cay đắng!

Có thể khi rút quân, tướng lãnh miền Nam cũng lo sợ rơi vào tình trạng hỗn loạn mà kinh nghiệm về quân sử còn để lại cho họ. Nhưng không một ai muốn tiên đoán trước về một thảm họa như thế.

Ai anh hùng, ai hèn nhát? Nay không phải là lúc mở hồ sơ để kết tội?

Thiệu abandoned us

Có lẽ trong cuộc tháo chạy này, kẻ bị oán ghét nhiều nhất không ai khác là ông Nguyễn Văn Thiệu. Nhiều người đã ghét ông trong vai trò tổng thống. Kissinger là người lãnh đạo cao cấp của Mỹ cũng ghét cay, ghét đắng ông Thiệu. Nhưng có lẽ sự thù ghét này chỉ thực sự oán ngút trời đối với tất cả những ai rơi vào hoàn cảnh người dân chạy cộng sản từ lúc tha1on chạy từ Tây Nguyên.

Theo ký giả Peter O’Loughlin hàng ngàn người tỵ nạn chạy trốn đã sống sót sau cuộc truy đuổi của cộng quân. Nhiều người trong số họ đã lớn tiếng chửi bới Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu: Thieu abandoned us. Một người đàn bà đã nói như thế.

Và có thể nhiều người khác cũng nói như thế. Ông Thiệu, ông Khiêm đều là những ngưới quá khôn ngoan nên biết tham sống mà sợ chết.

Và có thể mọi người dân khốn khổ chạy trên truyến đường 7B hướng về phía Tuy Hòa đều có tâm trạng như người đàn bà này. Tâm trạng cảm thấy bị đem con bỏ chợ, giữa rừng núi, giữa các con đường mà đôi khi cấu cống chưa sửa chữa, rơi vào thế kẹt. Đi không được, lui cũng không được.

Và rồi các binh lính trên các xe thiết vận xa đã thiếu kiên nhẫn, tức tối cán bừa lên bất cứ trở ngại nào đang cản đường họ để tiến về phía trước. Xe cộ, xác người bị cán. Bất kể. Cán hết. Tiến về phía trước.

Disordely retreat

Trước khi Đà Nẵng thất thủ thì số dân nay phồng lên đến 2 triệu người. Dưới quyền tướng Trưởng nay chỉ còn 25 ngàn quân. Đà Nẵng có lợi thế hơn Huế vì có hải cảng và việc quân xem ra thuận lợi hơn nhiều. Và nhờ thế có thể giảm áp lực của số dân tỵ nạn khi cần rút lui. Nhưng trong việc rút quân này, cộng sản rút kinh nghiệm ở Huế cũng dùng áp lực dân chúng sợ hãi gây thêm gánh nặng cho chính quyền và quân đội Quốc Gia.

Thời gian nay là yếu tố quan trọng nhất của thành công hay thảm bại của cuộc lui quân. Đại tướng Smith đã gửi ra Đà Nẵng vào ngày 25 tháng ba 5 tàu kéo, 6 sà lan và ba tàu thủy. Phần Air America cho biết không có đủ phương tiện máy bay để ra Đà nẵng.

Con số tàu như thế khéo lắm chỉ đủ chuyên chở người Mỹ và nhân viên phụ cận là cùng. Số còn lại hàng nửa triệu người dân muốn được di tán là một bài toán không có đáp số.

Ngày 26 thì tướng Trưởng chỉ kịp cho vợ con cùng với vợ con lãnh sự Mỹ và Philip Custer (bí danh của Trưởng cơ sở CIA ở Đà Nẵng), với Terry Tull được đi trên một chuyến bay đặc biệt của DAO.

(Còn tiếp phần II, Kết)

© 2015 DCVOnline

Nếu đăng lại, xin đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net”

(1) Tác giả gợi lại hình ảnh trận chiến rút lui của liên quân Anh và Pháp bị sa lầy ở bãi biển Dunquerque từ 21 tháng 5 đến 4 tháng sáu năm 1940.

(2) Xem báo Đi Tới, số 32, năm 2000, trang 12. Tướng Ngô Quang Trưởng sau này có tiết lộ trong bài Tại sao tôi bỏ quân đoàn 1. Ông cho biết ngay từ ngày 13 tháng ba, năm 1975, ông được lệnh Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu gọi vào trình diện ở Sài Gòn và ra lệnh: ‘Phải rút khỏi Quân Đoàn I càng sớm càng tốt. Lệnh phải rút về Phú Yên, ngày 14-3 lấy Quốc lộ 22 làm ranh giới.’ Lệnh này chỉ có Tổng thống, Thủ tướng, Đại tướng Cao Văn Viên, tôi (Tư lệnh Quân Đoàn I và tư lệnh quân đoàn II, tướng Phạm Văn Phú biết mà thôi. Đến ngày 18-3, tướng Cao Văn Viên theo chỉ thị Tổng thống ra lệnh bỏ Huế.

(3) Tướng Lê Quang Lưỡng, tư lệnh sư đoàn Dù, trước 1975 trong một bài viết, Thiệu xé rách sư đoàn Dù làm gì? Trong đó tướng Lưởng nhận lệnh trực tiếp của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, Đưa sư đoàn Dù về Sài gon. Trích báo Đi Tới, số 32, 2000.

(4) Cao Văn Viên, Những ngày cuối của VNCH, trang 130. Đề nghị của tướng Đồng Văn Khuyên, tổng cục tiếp vận đề nghị co cụm lại cho tương xứng với sự cắt giảm viện trợ. Đề nghị thứ hai của tướng John Murray một sơ đồ tương tự như của tướng Khuyên. Đề nghị thứ ba của tướng Ted Sarong, Úc Dại Lợi một kế hoạch tương tự.

(5) Frank Snepp, Decent Interval, trang, 149.

(6) Larry Engelmann, Tears before the rain, trang 53

40 năm nhìn lại những ngày mất Sài Gòn (II)

Nguyễn Văn Lục

Heroism, Cowardice, Bitter refugees.

danang4

Vậy mà tại Sài Gòn, tướng Tham mưu trưởng Frederick Weyand khi viếng thăm Việt Nam đã bảo đảm với các nhà lãnh đạo đương quyền ở Việt Nam là Tổng thống Ford vẫn ủng hộ mạnh mẽ chính phủ Nam Việt Nam. Chữ dùng là ‘strong support’ trong khi tình trạng miền Nam đang rơi vào sự tuyệt vọng.

(Tiếp theo phần I)

Chúng tôi muốn Thiệu phải từ chức

Bản đồ VNCH ngày 21 tháng Ba, 1975. Nguồn: AP

Bản đồ VNCH ngày 21 tháng Ba, 1975. Nguồn: AP

“Ông ta đã bán miền Nam cho cộng sản. Thiệu đã không cho biết trước có cuộc rút quân này. Chúng tôi đã bốn lần thoát chết.” Một người phụ nữ khác đã nói như thế. Một vị sĩ quan cho biết trong ba ngày đầu, những nạn nhân bị cộng quân phục kích còn được chôn cất hẳn hoi, nhưng sau đó thì những người bị giết hoặc bị thương bị đẩy sang lề đường và cứ thế đôi khi xe cộ cán qua người họ. Khi mà đoàn người bị ứ đọng bởi xe cộ, kẹt cứng trên một đoạn đường dài hơn 10 dặm, bị pháo kích của cộng quân, bị mìn, bị xô đẩy, chen chúc đến không nhúc nhích được thì bùng phát ra các vụ cướp bóc, hôi của cũa những người lính.

Xe cộ, tủ lạnh, tivi, quạt máy, giường ngủ, dàn máy hát và đồ đạc tùy thân lúc này trở thành miếng mồi ngon cho sự cướp bóc? Anh hùng hay hèn nhát? Nào ai có thể nói được trong hoàn cảnh những người chạy loạn khốn khổ và cay đắng ấy?

Cầu cống chưa sửa kịp tạo ra sự dồn cục, tắc nghẽn như thể chui vào trong một cái rọ cho cộng quân đuổi theo, pháo kích.

Nó còn khốn khổ, tồi tệ hơn hoàn cảnh của liên quân Anh Pháp ở Dunkerque. Cái cảnh ấy không bao giờ có thể quên được. Và cứ thế các tỉnh Kontum, Pleiku, Ban Mê Thuột rơi vào tay cộng quân.

Miền Nam đã để mất vào tay cộng sản 11.000 dặm vuông và con số hơn một triệu dân.

Mặc dầu vậy, hàng ngàn xe cộ, xe gắn máy cũng đã tới được Tuy Hòa. Đến Tuy Hòa, phần lớn đàn bà, trẻ con như lạc mất thần. Họ lặng lẽ lau nước mắt.

Tổng thống Park Chung Hee của Nam Hàn

Trong khi đó, cũng theo tin AP, nơi xứ người, Tổng thống Park Chung Hee của Nam Hàn quyết tâm xiết chặt các thành phần đối lập. Trước đó đã có cuộc trưng cầu dân ý đưa đến kết quả dễ dàng one-man rule vào tháng hai vừa qua. Hoàn cảnh Việt Nam và Hàn Quốc có nhiều điểm giống nhau. Nhưng số phận hai nước lại rẽ theo những hướng khác nhau, một nước mỗi ngày một phát triển, một nước thì lận đận với chiến tranh và rồi mỗi ngày một thêm tụt hậu.

Câu hỏi thắc mắc của tôi là ta và Nam Hàn cùng một hoàn cảnh, vậy mà ông Thiệu không sang Đại Hàn một chuyến học hỏi người ta nhỉ?

Ngày Đà Nẵng mất cũng là ngày Lon Nol của Cao Mên chuồn mất.

Vào đúng ngày Đà Nẵng mất. Thủ tướng Lon Nol dẫn đầu một phái đoàn viếng thăm thiện chí Indonesia và Hoa Kỳ. Trước khi đến Indonesia, Lon Nol quá cảnh ở phi trường Thái Lan Utapao, nhưng bốn ngày sau, ông biến mất. Và kể từ ngày đó, ông không bao giờ quay trở vể nữa. Ông Lon Nol xem ra cũng quá khôn ngoan, giống lãnh đạo của ta không kém gì!

Việc ra đi của tướng Lon Nol cũng báo hiệu cho biết con bài tẩy của Kissinger cách đây hơn 4 năm cũng chấm dứt theo. Kissinger là người đầu tư vào lá bài Lon nol. Vậy mà sau đó Kissinger phủi tay.

Ngày 25 tháng Ba. Âm mưu ám sát Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu

Nguồn tin của hãng Reuters trích lại một bài báo đăng trên báo ở Nhật, tờ Mainichi cho hay Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu vừa thoát một cách an lành vụ ám sát ông vào ngày chủ nhật vừa qua.

Trong ngày thứ hai, người ta cũng nghe được dư luận về vụ ám sát ông Thiệu là do âm mưu của một sĩ quan cao cấp tìm cách tấn công ông Thiệu. Nhưng các cận vệ của ông Thiệu đã phòng ngừa và ngăn cản được vụ tấn công. Và ngay lập tức, viên sĩ quan ấy bị bắt giữ.

Nguyên do của vụ mưu sát ông Thiệu liên quan đến việc ông quyết định cho rút khỏi Tây Nguyên vừa qua.

Có thể nói, trong thời gian này, ông Nguyễn Văn Thiệu là một người cô độc. Nhiều tin đồn đảo chánh đòi lật đổ. Ông Nguyễn Cao Kỳ được coi là mối nguy hiểm nhất, vốn là một địch thủ, tìm cách móc nối với tướng Lê Minh Đảo, tướng Cao Văn Viên để có thể có thêm vây cánh.

Nhưng kết quả là cả tướng Lê Minh Đảo cũng như Cao Văn Viên đều không muốn tham dự.

South Viet generals, Plots are all in vain

The Ottawa Journal, April 14, 1975, trang 13.

The Ottawa Journal, April 14, 1975, trang 13.

Phóng viên Mark Gayn có viết một bài diễn tả đủ cái tình trạng miền Nam lúc bấy giờ nhan đề: South Viet generals, Plots are all in vain.

Theo Mark Gayn, ít lắm cũng có hai nhóm tính lật đổ ông Nguyễn Văn Thiệu.

Thứ nhất, nhóm cựu tướng Dương Văn Minh mà dưới mắt người Mỹ được coi như hết thời. Ngoài thú chơi lan còn đánh Tennis mà người Mỹ đánh giá ông rất thấp. Một thứ Hamlet của chính trị Viêt Nam, tính tình không dứt khoát đi đến chỗ bất lực chẳng giải quyết được gì. Lúc nào cũng là thứ bung xung. Bề ngoài đóng vai trò trung lập. Chỉ không ngờ con bài tẩy ấy nay lại có chỗ để dùng như một con chiên tế thần mà người Mỹ gọi là a Bluff professionnal soldier, nửa mùa theo Tây. Ra vào nhà Dương Văn Minh, có một số đối lập, bất mãn với chính quyền Nguyễn Văn Thiệu được Minh che chở như trường hợp cựu dân biểu đối lập Dương Văn Ba. Ông này ăn ở ngay trong dinh Hoa Lan và trốn lính. Cộng thêm vào đó là một vài tướng lãnh còn mong muốn Minh trở lại nắm chính quyền và có cơ may thương thảo hòa bình với cộng sản. Nhưng Minh là người rất ngại Nguyễn Văn Thiệu. Minh có mời Trần Thiện Khiêm lại nhà nói chuyện và thú nhận có liên lạc với phía Mặt trận. Minh cũng khoe là qua tướng Đôn vừa về từ Paris, có liên lạc với Jacques Chirac và Pháp đã công khai cho rằng Minh là người có thể có vai trò hòa giải. Đại sứ Pháp Jean-Marie Merrillon đã đến gặp Minh để tiếp xúc.

Người thứ hai là thủ tướng Trần Thiện Khiêm, một người khá nhất trong đám tướng lãnh, một tay chuyên nghiệp trong những âm mưu và khuynh đảo và cũng có thể là người có khả năng nhất để điều hành chính phủ. Vừa qua, nhân danh ông Thiệu, ông Khiêm là người thay đổi ba tướng quân đoàn, 20 đại tá và 200 cấp tá. Ông biết dùng người, ngay cả loại trừ người này, người kia, rồi cài đặt vào vị trí khác khiền ai cũng mắc một món nợ với ông. Tuy nhiên, tình hình quá khẩn trương và thay đổi gấp rút nên việc sắp đặt các chức vụ chỉ huy chưa đem lại kết quả gì khi cộng quân sắp sửa vào đến cửa ngõ trong nhà. Mọi cố gắng thay đổi đề trở nên vô ích. (Xem phần di tản của ông Thiệu để thấy Ông Thiệu và Khiêm là cặp bài trùng)

Lần đầu tiên, Đà Nẵng bị pháo kích. Ở phía Nam Đà Nẵng, Quảng Ngãi và Chu Lai thất thủ giúp cho cộng quân rảnh tay. Nói thất thủ là không đúng, cộng quân chưa tới nơi thì quân dân cán chính đã tự rút lui có chiến thuật, mạnh ai người nấy bỏ chạy.

Hết Quảng Ngãi, Chu Lai đến Nha Trang và cứ thế tháo chạy. Cảnh tượng đó bắt nguồn từ cuộc rút quân ngày 16 tháng 3 tại Pleiku, Kontum và như vết dầu loang. Chưa đánh đã bỏ chạy.

Thực sự sau trận tấn công dễ dàng vào Ban Mê Thuột ngày 10-3 mở đầu cho chiến dịch, cộng quân chưa hề có trận đụng độ chính thức nào với quân đội miền Nam Việt Nam.

Đó là nỗi nhục chung cho quân đội miền Nam.

Ngày 27 tháng ba. Mất Bình Định

Bản đồ VNCH ngày 27 tháng Ba, 1975. Nguồn: AP

Bản đồ VNCH ngày 27 tháng Ba, 1975. Nguồn: AP

Tỉnh Bình Định đã rơi vào tay cộng quân. Trong khi đó ở Sài Gòn, Tổng thống Thiệu đã ra lệnh bắt một số khoảng hơn 10 người được coi là có âm mưu lật đổ Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Danh sách 10 người này là những ai hiện nay chưa được biết chính xác. Nguyên thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ họp báo phủ nhận ông không có dính dáng trong những âm mưu tính lật đổ này. Ông cũng kêu gọi thành lập một chính phủ mới ‘được dân chúng và quân đội tin tưởng’. Tuy nhiên ông nói với các thông tín viên báo chí là ông mong muốn có sự thay đổi bằng những phương tiện hòa bình.

Ngày 27 tháng 3. Quảng Trị mất

Người ta còn nhớ trước đây, cộng quân đã chiếm Quảng Trị vào năm 1972. Trận đánh kéo dài đến tám tháng. Và quân đội VNCH phải mất 2 tháng để chiếm lại Cổ Thành với trợ giúp của gần 5000 chuyến bay B-52 và và gần một triệu viên đạn pháo. Cuộc chiến đấu tái chiếm Quảng Trị là một quyết tâm của quân đội VNCH, đổ ra nhiều xương máu.

Trong cuộc tái chiếm của Quảng Trị, người ta cho là trận đánh kinh hoàng nhất. Số thương vong cả hai bên, nhất là phía cộng quân thiệt hại không đếm xuể. Xác người không kịp chôn. Họ đã vùi thây ở đây như một thứ mồ chôn tập thể mà Hà Nội đã đẩy họ vào. B-52 là hung thần của họ.

Vậy mà nay đến lượt quân đội miền Nam phải bỏ chạy.

Nay thì nhiều đoàn người dân chúng hốt hoảng bỏ chạy. Thừa Thiên có mật độ dân số là 750.000 ngàn người, trong đó thành phố Huế với 200.000. Huế với những cảnh sôi nổi, biểu tình xuống đường trước đây, nay Huế chỉ còn là cảnh vườn không nhà trống. Thông tín viên AP đã phải gọi Huế là vùng no-man’s land. Thành phố Huế vắng hoe. Người ra đi thì đã đi rồi. Người ở lại thì đành chấp nhận cho số phận buông xuôi. Người ta ước lượng con số hơn nửa triệu người đã bỏ chạy.

10 giờ đêm 28 tháng ba

Có lệnh bỏ Đà Nẵng. Tướng Truởng đã họp các sĩ quan tham mưu và thông báo cho họ tin triệt thoái khỏi Đà Nẵng. Triệt thoái như thế nào, phương cách làm sao? Từ tướng Trưởng trở xuống, không một ai có lòng dạ nào lo cho cuộc triệt thoái có trật tự, có lớp lang. Ai đi trước, ai đi sau ngăn chặn cộng sản. Kinh nghiệm triệt thoái Cao Nguyên đáng lẽ là một kinh nghiệm đắt giá.

Vậy mà bài học Tây nguyên đã không rút tỉa được kinh nghiệm gì cho cuộc triệt thoái này. Cuối cuối cùng đây là cuộc bỏ chạy thê thảm thứ hai sau Ban Mê Thuột.

Trách nhiệm này chắc hẳn tướng Trưởng phải chịu một phần!

Cách đây 2 tuần lễ, tại đường số 7, đó là một Dunkerque Việt Nam.

Ngày hôm nay, cuộc triệt thoái khỏi Đà Nẵng là một nỗi kinh hoàng mà trách nhiệm phần lớn nằm trong tay quân đội, tướng lãnh, sĩ quan cao cấp.

Ngày 29 tháng Ba. Đà Nẵng những ngày hấp hối. Miracle Flight from Hell

Đà Nẵng sau này trở thành tiêu biểu cho cuộc tháo chạy của quân đội và dân chúng miền Nam lánh nạn cộng sản. Một sự tháo chạy trong hoảng loạng, chà đạp, xô đẩy ngay cả giết chóc để kiếm một chỗ trên máy bay hay trên các tàu thủy.

Thảm cảnh ấy chỉ sau này ở hải ngoại Cao Xuân Huy mới viết “Tháng ba gẫy súng”. Đó là một địa ngục trần gian mà những chuyến bay rời khỏi Đà Nẵng những ngày cuối cùng được phóng viên Paul Vogle là nhân chứng diễn tả lại.

Câu chuyện về ông Edward Daly

Người tị nạn cộng sản, kể cả trẻ mồ côi Việt Nam đến Mỹ bằng phi cơ của World Airways. Nguồn: oaklandaviationmuseum.org

Người tị nạn cộng sản, kể cả trẻ mồ côi Việt Nam đến Mỹ bằng phi cơ của World Airways. Nguồn: oaklandaviationmuseum.org

Cũng trong cái tinh thần hy sinh và trách nhiệm mà Edward Daly đã nhất quyết cho chiếc máy bay phản lực 727s cất cánh từ phi trường Tân Sơn Nhất quay trở lại Đà Nẵng thêm 17 lần để cứu vớt những người tỵ nạn mặc sự ngăn cản và chấm dứt hợp đồng của tòa đại sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn sau 3 chuyến di tản.

Tất cả chi phí chuyến bay cũng như trách nhiệm là do tự ý Daly quyết định với hy vọng vớt thêm người tỵ nạn. Ông là chủ công ty World Airways từ năm 1950.

Cái gương can đảm của Daly thật đáng để kể lại.

Phóng viên của hãng UPI, Paul Vogle là một trong những người đi chuyến bay chót từ Đà Nẵng vào Sài Gòn. Ông cho là một phép lạ chuyến bay có thể cất cánh và an toàn ra khỏi không phận Đà Nẵng vào ngày thứ bẩy. Nhiều người đã giành giật lên máy bay và sẵn sàng giết người khác để giành một chỗ trên chuyến bay.

Trang nhất tờ The Hour - Mar 21, 1975.

Trang nhất tờ The Hour – Mar 21, 1975.

Ông Daly đã bắn một loạt đạn lên trời nhằm cảnh cáo. Nhưng xem ra tất cả đều vô hiệu. Theo Paul Vogle, những người lính VNCH đã xả hàng tràng đạn M16 để ngăn cản những người dân tỵ nạn đổ xô lên máy bay. Trong khi đó cộng quân tiếp tục pháo kích vào phi trường càng làm cho dân chúng hoảng sợ. Paul Vogle đã trông thấy một người lính của quân đội miền Nam đã đạp vào mặt một người đàn bà lớn tuổi để dành chỗ lên máy bay. Người đàn bà lộn nhào xuống ở phi đạo và một tay vẫn cố bám vào phi cơ đã sắp sửa lăn bánh. Một binh sĩ dùng súng đã bắn một tràng súng liên thanh. Trên máy bay, chỉ có các binh sĩ trong quân phục của họ. Phần đông họ thuộc Đại đội Hắc Báo, Sư đoàn 1 Bộ binh (1st Division’s Black Panther Unit). Sàn máy bay đầy những vết máu. Có hai thường dân duy nhất là đàn bà và một đứa trẻ trong chuyến bay phản lực 727. Có vài người bám vào khoang bánh phi cơ và may mắn như một phép lạ nếu họ còn sống sót. Một số người khác không có may mắn như thế khi phi cơ đã lượn ra xa và họ rớt xuống biển. Khi đến phi trường Tân Sơn Nhất, người ta còn thấy thây một người lính với khẩu M16 còn dính vào vai, thây người còn dính lủng lẳng vào bộ bánh hạ cánh của chiếc phi cơ.

Theo Frank Snepp sau này cho biết, khi chiếc máy bay World Airways 727 vừa đáp xuống phi đạo thì xe chở quân đội cộng hòa tiến lại gần máy bay và binh lính ào xuống. Khoảng 5000 dân chúng đứng sau một hàng rào nôn nóng chờ đợi đã chạy ào về phía máy bay.

Viên phi công vội cho rồ máy và vội vã cất cánh kéo theo một số người còn đang bám dính vào máy bay.(7)

Theo Nhiếp ảnh gia Liên Hương của hãng UPI đã có mặt trong chuyến bay thứ nhì từ Đà Nẵng vào Sài Gòn, nhiếp ảnh gia đã nhìn thấy một số người bám vào chiếc phản lực thứ nhất khi nó cất cánh và một người đã bị rớt xuống biển.

Chân ngươi lính VNCH còn trong bánh phi cơ trong bộ phận hạ cánh chủa chiếc World Airways 727 rời Đà Nẵng. Nguồn: UPI

Chân một ngươi lính VNCH còn trong bộ phận hạ cánh của chiếc World Airways 727 và cánh trái của phi cơ hư hại vì lựu đạn của lính VNCH nhưng vẫn rời Đà Nẵng. Nguồn: UPI

Vậy mà tại Sài Gòn, tướng Tham mưu trưởng Frederick Weyand khi viếng thăm Việt Nam đã bảo đảm với các nhà lãnh đạo đương quyền ở Việt Nam là Tổng thống Ford vẫn ủng hộ mạnh mẽ chính phủ Nam Việt Nam. Chữ dùng là ‘strong support’ trong khi tình trạng miền Nam đang rơi vào sự tuyệt vọng.

Còn hàng trăm ngàn binh sĩ và thường dân kẹt lại ở Đà Nẵng trong tình trạng rối loạn và vô trật tự. Mất Đà Nẵng, coi như một thiệt hại lớn lao nhất kể từ năm 1946. Một triệu rưởi ngưởi bị vây hãm ba phía. Và trông ra biển là một lối thoát tuyệt vọng. Có 8 chuyến bay định hạ cánh xuống Đà Nẵng để cứu vớt một số dân tỵ nạn. Nhưng đành bỏ cuộc. Cũng chỉ còn chút may mắn là khoảng từ 35 ngàn đến 50.000 ngàn người đã chạy thoát bằng đường biển,

Đà Nẵng ngày 31-3. Babies fall overboard in scramble for ships

Vào ngày 29, tướng Trưởng còn ở Đà Nẵng. Nhưng thay vì ở trên bờ thì ông đã leo lên một chiếc canoe tuần tra để ra tầu lớn. Nơi đây, ông còn nán lại thêm hai ngày nữa để chứng kiến cảnh hấp hối của Đà Nẵng, thành phố lớn thứ hai sau Sài Gòn.

Sau này, nhiều sĩ quan đã phê bình ông vì ông đã không ở lại Đà Nẵng cho đến ngày chót để giữ tinh thần binh đội của mình.Thảm cảnh giành giật lên máy bay chỉ là một sự thu nhỏ thảm kịch tháo chạy. Tại bãi biễn Đà Nẵng, hàng ngàn con người chờ đợi, lội bì bõm với hy vọng ra được tàu thủy bị sóng vùi lấp, hoặc chen chúc nhau trên các sà lan cả mấy ngày nhịn đó, nhịn khát.

Xà lan chở người tị nạn lên tầu SS Pioneer Comander. Nguồn:

1 tháng Tư, 1975 | Tàu nhỏ kéo xà lan chở người tị nạn lên tầu SS Pioneer Contender. Nguồn: AP Radiophoto

Trên chiếc tàu buôn dân sự chở hàng khô SS Pionner Contender(7a), theo lời một nhân chứng thuật lại, một số binh sĩ đã nhốt các chỉ huy chiến hạm này vào một cabin, rồi thay nhau hãm hiếp các phụ nữ, sát hại cũng như trấn lột nữ trang, tiền bạc gây hoảng sợ trong số dân chúng ở trên tầu.

Đây là tình trạng phẫn nộ của một số binh sĩ về sự sụp đổ cay đắng đang diễn ra. Anh hùng hay hèn nhát?

Những thủy thủ người Mỹ trên tầu cho hay có ít nhất 25 người đã bị giết chết khi tranh giành lên tầu. Những người lính thủy quân lục chiến này cho rằng, họ đã giết những người đó vì tình nghi họ là Việt Cộng. SS Pioneer Contender là chiếc tầu cuối cùng rời bến cảng Đà Nẵng. Riêng phóng viên Peter O’Loughlin đã nhìn thấy khoảng 15 xác chết và hàng trăm xác chết khác trên những chiếc xà lan khác.

Theo một nguồn tin khác của AP, trên những chiếc xà lan chất đống hàng mấy ngàn người vừa binh sĩ, vừa thường dân với trẻ con sống chen chúc nhau từ 4 ngày nay không có nước uống. Họ trở thành như điên loạn và đôi khi nhảy xuống biển tự vận. Lính thủy người Mỹ trên tầu SS Pioneer Contender làm thành hành rào người để đỡ những đàn bà trẻ em lên tàu. Phải mất tám giờ đồng hồ để đưa họ lên tàu.

Hình: 1 April 1975 – Lưới chuyển hàng đưa người tị nạn lên tầu SS Pioneer Contender ở bờ biển, sau khi thành phố Đà Nẵng sụp đổ; Phải mất tám giờ để đưa khoảng 6.000 người tị nạn lên tầu. Nguồn: Peter O'Loughlin / AP

1 April 1975 – Lưới chuyển hàng đưa người tị nạn lên tầu SS Pioneer Contender ở bờ biển, sau khi thành phố Đà Nẵng sụp đổ; Phải mất tám giờ để đưa khoảng 6.000 người tị nạn lên tầu. Nguồn: Peter O’Loughlin / AP

Nhiều người bám vào dây neo của tàu để trèo lên. Chiếc SS Pionner Contender thứ nhất đã vớt được 5000 người và đã nhổ neo. Chiếc SS Pioneer Contender đã có thể áp sát tàu vào sà lan giúp cho người ta có thể lên tàu dễ dàng hơn. Khi chiếc Contender, nhổ neo thì không còn sà lan nào khác và tàu trực chỉ phía Nam, rất có thể là sẽ ghé Cam Ranh. Trên tàu thiếu nước uống, chỉ còn vài thùng nước uống không đủ phân phát cho mọi người. Thủy thủ đoàn đã phải biến Cabin trên tàu thành một nhà thương, vì có người đàn bà hạ sinh một đứa trẻ. bác sĩ cho biết đứa trẻ ở trong tình trạng nguy kịch.

Tàu trực chỉ hướng Nam và người ta còn nhìn thấy xa xa trên bãi biển như một đống rác với xe gắn máy, valise, dày giép, quần áo vứt hỗn độn cũng như xác một đứa trẻ nằm chết trên bãi. Người ta còn nhớ cảnh tượng hãi hùng khi một vài đứa trẻ bị rớt xuống biển và mẹ chúng nhảy xuống theo với một cố gắng vô ích cuối cùng mong cứu được con của họ.

Đó là bài tường thuật của phóng viên AP, tại Đà Nẵng, vào ngày 31 tháng ba với nhan đề: Babies fall overboard in scramble for ships.

Chẳng hiểu những ông Thiệu, ông Khiêm, ông Trần Văn Đôn, ông Dương Văn Minh có cơ hội được xem những thảm cảnh này trên truyền hình hay không?

Phần tôi, sau này có dịp nghĩ rằng các các cấp lãnh đạo miền Nam và các vị chỉ huy từ cấp đại tá trở lên đang có trách nhiệm ở vùng một đã không làm hết bổn phận của một quân nhân. Hầu hết đã dùng những phương tiện dành cho họ và rút khỏi miền Trung bỏ lại đằng sau các sĩ quan cấp thấp như thiếu tá, đại úy và binh lính của họ.

Vì thế, đã có nhiều thành phố buông xuôi, bỏ chạy mà cộng quân đã không phải tốn một phát súng nào. Chẳng hạn như tại Quảng Trị, Bình Định, Tuy Hòa.

Người ta có cảm tưởng mạnh ai tìm phương tiện tháo thân và bất kể số phận dân chúng ra sao. Ông Thị trưởng Đà Nẳng đã tỏ ra bất lực và buông xuôi. Một trong những nhân viên CIA làm việc tại Đà Nẵng Francis Gasped đã hét lên khi không cách nào liên lạc được với vị thị trưởng, “Get me the Mayor.”

Đã có bao nhiêu ông thị trưởng trốn trách nhiệm vào giờ phút thứ 25 như thế?

Và khi đã gặp được viên thị trưởng thì Gaspel nói, “Hãy giúp chúng tôi một tay ở đây. Họ dù sao cũng là dân của các ông.”(8)

Người ta ít để ý và ghi nhận là ngoài khơi bãi biển Đà Nẵng có chiếc tầu thủy dành riêng cho nhóm CIA để quan sát tình hình. Tên chiếc tầu là Oseola có nhiệm vụ quan sát, nếu cần tiếp trợ theo khả năng của họ.

Trên bong tầu Oseola, người ta có thể quan sát cảnh chen chúc nhau lên chiếc Pioneer Contender, cảnh những xà lan tới tấp đưa người lên chiếc SS Pioneer Contender đã quá tải. Xa xa là chiếc HQ-5 của Hải quân, một tầu tuần duyên.

28 tháng Tư 1975: Tàu SS Pioneer Contender

23 April 1975 – người tị nạn Việt Nam trên tàu SS Pioneer Contender trong giai đoạn kết thúc Chiến tranh Việt Nam; 40 năm trước, vào ngày 30 Tháng 4 năm 1975, miền Nam Việt Nam thất thủ. Nguồn: Bộ Quốc phòng Mỹ / AP

Vài giờ sau, vào lúc nửa đêm, trên chiếc Oseola, người ta có nhận thấy đèn pha trên chiếc SS Pioneer Contender trực chỉ hướng Nam về phía Cam Ranh.

Sứ mệnh một con tàu coi như đã hoàn tất. Phần còn lại, để cho số phận quyết định!

Có một điều như một tấm gương cho các tướng lãnh, sĩ quan cao cấp soi gương là người ở lại cuối cùng trước khi rời Đà Nẵng lại là một người Mỹ. Mặc dầu có lệnh của trùm mật vụ Polgar yêu cầu ông phải di tản ngay khỏi Đà Nẵng bằng máy bay. Ông Philip Custer [bí danh của Trưởng Cơ sở CIA tại Đà Nẵng – có thể là Thomas J. Flores] coi như tai điếc vẫn tiếp tục ở lại, coi như không nhận được lệnh. Ông ở lại với hy vọng là cứu vớt được nhiều người khác lên tầu thủy, thêm được tin tức.

Nhưng đối với Polgar thì việc trì hoãn di tản là tự chuốc lấy một sự liều lĩnh không cần thiết.

Cũng trong cái tinh thần hy sinh và trách nhiệm mà Edward Daly đã nhất quyết cho chiếc máy bay phản lực 727s cất cánh từ phi trường Tân Sơn Nhất quay trở lại Đà Nẵng để cứu vớt thêm những người tỵ nạn mặc dầu sự ngăn cản của tòa đại sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn.

Nhưng nếu tất cả cấp chỉ huy của chúng ta làm công việc như ông Custer hay ông Daly ở trên thì sự thể sẽ như thế nào?

Vào lúc này, tại tòa đại sứ Hoa Kỳ loan báo sẽ có những chuyến bay đặc biệt chở sang Sài gòn các phương tiện thuốc men và cả đồ viện trợ quân sự nữa.

Quyết định của sinh viên ở Canada

Trước tình hình miền Nam trở thành một sự tuyệt vọng. Anh em sinh viên bên này đã tụ họp lại và đi đến quyết định lên gặp đại diện chính quyền Canada bảo lãnh cho gia đình sang tỵ nạn bên Canda. Hạ tuần tháng 3, 1975 sinh viên Việt Nam đã đến văn phòng Bộ trưởng Bộ Lao động và Di trú Robert Andras yêu cầu chính phủ Canada đưa thân nhân của họ rời khỏi Việt Nam. Mặc dù chỉ có một số nhỏ, sinh viên Việt Nam (khoảng 1500 người ở Ontario và Quebec) khi tình hình xấu đi, trụ sở chính của Bộ Bộ Lao động và Di trú tại Ottawa đã tràn ngập với hàng ngàn đơn xin bảo lãnh cho thân nhân và gia đình ở Việt Nam.

Đơn bảo lãnh thân nhân của sinh viên Việt Nam tại Canada, Circa tháng 3, 1975. Nguồn DCVOnline

Đơn bảo lãnh thân nhân của sinh viên Việt Nam tại Canada, Circa tháng 3, 1975. Nguồn DCVOnline

Các toán công tác của Bộ Lao động và Di trú ở châu Á-Thái Bình Dương không kịp đối phó, và toàn bộ đội ngũ ngoại giao đoàn đã chuyển sang gởi thư và chiếu khán nhập cảnh. Đơn xin bảo lãnh được cứu xét cấp tốc, và telex danh sách người được bảo lãnh được gửi đến đại sứ quán Canada tại Sài Gòn ở tốc độ nhanh nhất. Nhân viên ngoại giao đã làm việc từ 14 đến 16 giờ một ngày. Hai nhân viên đã ngủ tại Trung tâm Thông tin liên lạc của Bộ Ngoại giao để bảo đảm bảo các tin nhắn vào và ra đã được chuyển kịp thời. Và tất cả các trung tâm di trú ở Canada đã mở cửa một ngày cuối tuần để nhận đơn bảo lãnh.

Cố gắng của nhân viên Bộ Di trú ở Canada đã đem lại kết quả: mỗi buổi sáng tháng Tư, tòa đại sứ Canada tại Sài Gòn đã nhận được những tờ telex dài từ 7 đến 10 thước với tên và địa chỉ, thường không đầy đủ, của thân nhân của sinh viên và người Việt tại Canada.(9)

Chỉ trong tháng Tư 1975, văn phòng visa Canada ở Hồng Kông đã gửi thư hứa cấp chiếu khán nhập cảnh đến 3.500 gia đình (khoảng 15.000 người) ở Việt Nam được người thân ở Canada bảo lãnh.(9a)

Thư hứa cấp chiếu khán nhập cảnh Canada, 24 tháng 4, 1975. Nguồn CIHS, số tháng 4, 1975.

Thư hứa cấp chiếu khán nhập cảnh Canada, 24 tháng 4, 1975. Nguồn CIHS, số tháng 4, 1975.

Nay nhìn lại, người ta thắc mắc không biết có bao nhiêu sinh viên phản chiến ở Canada nộp đơn xin đoàn tụ gia đình?

Câu trả lời có thể là từ một người dại diệm nhóm sinh viên thiên tả trong tổ chức UGCV (Union générale des Vietnamiens au Canada. Hội Việt kiều Yêu Nước Tại Canada) – ông Thục Bình nói như sau:

Chúng tôi chào đón cuộc chinh phục toàn Đông Dương của người cộng sản. Ông nói tiếp:

“Cuộc chiến thắng vào tháng tư 1975 đã làm rung chuyển huyền thoại sức mạnh siêu cường của nước Mỹ. Nó đem đến sự giải phóng cho nhiều quốc gia. Nhờ đó, nó đem lại sự chiến thắng của các lực lượng tiến bộ của lào và Cambodia, sự chấm dứt chế độ thộc địa của Bồ Đào Nha tại Angola, Guinea-Bissau và Mozambique và sự sụp đổ của các nhóm độc tài cựa tả tại Thổ Nhĩ Kỳ và Bồ Đào Nha.”(10)

Phần chính quyền Canada như Bộ trưởng Di trú Robert Andras nhấn mạnh trong buổi họp nội các rằng: “Canada có truyền thống nhân đạo ‘humanitarian considerations ought to be regarded as paramount’ (Sự cứu xét về mặt nhân đạo phải được coi là điều tối quan trọng).”

Cứu trợ nhân đạo cũng là để đáp ứng lời kêu gọi của Mỹ muốn các nước đồng minh cùng nhau hợp tác trong một chương trình đa phương nhằm định cư những người Việt.

Chẳng những chính phủ Canada chấp nhận cho các sinh viên đang du học tại đây, các người có quyền công dân hay thường trú, khoảng 1500 người được bảo lãnh thân nhân từ Việt Nam sang. Chính quyền còn thỏa thuận nhận khoảng 2000 người không có thân nhân bảo lãnh ở các trại tỵ nạn và 1000 người khác Đông Nam Á.(11)

Chúng tôi nghĩ rằng, việc bảo trợ những người Việt Nam tỵ nạn đến Canada ngay sau ngày 30 tháng Tư, 1975 là một việc làm nhân đạo. Nếu có ưu tiên nào, lúc đó, thì ưu tiên duy nhất là có thân nhân hiện ở Canada. Cũng vì tính cách nhân đạo đó, sau này chính phủ Canada đã cho nhập cảnh Canada đủ mọi thành phần, có học cũng như không có học, biết tiếng Pháp cũng như không biết tiếng Pháp. Tài liệu “Indochinese Designated Class Regulations”, S.O.R./78- 931 nêu rõ nhiều chi tiết về tiến trình bảo lãnh/nhập cư vào Canada của người tị nạn Việt, Miên, Lào đã bỏ nước ra đi sau ngày 30 tháng Tư 1975.

Một số thành phần thuộc giới có ăn học ở Việt Nam, được bảo lãnh vào Québec chủ quan cho rằng, Québec thường dễ chấp nhận những người có bằng cấp và nói được tiếng Pháp! Đó là một lối suy nghĩ chủ quan không đúng chỗ. Hiện nay di dân người Việt ở Canada đã lên đến con số 250.000 người, vậy thì ai là người có học và ai là người nói tiếng Pháp trong số đó?

Trong tập hồ sơ kỷ niệm 40 năm di cư của Hội Sử học Di Dân Canada (The Indochinese Movement: Fortieth Anniversary), ông Bộ trưởng Di trú Robert Andras đã nêu bật tính cách ‘phi chính trị’ trong việc tiếp nhận người tỵ nạn. Vì thế, Canada cùng lúc cho nhập những người Việt Nam tránh nạn cộng sản cũng như cho nhập những người dân Chí Lợi thuộc cánh tả của Tổng thống Allende bị chính quyền độc tài quân phiệt Pinochet săn đuổi và truy lùng.

Ngày mồng một, tháng Tư, 1975 | Cong will talk, if Thieu out

Trước một nguy cơ miền Nam sụp đổ không tránh được, cộng sản Hà Nội càng tỏ ra quyết liệt. Tin của thông tín viên AP, từ Nhật Bản cho hay, cộng sản Hà Nội tuyên bố miền Nam Việt Nam đang ở một khúc quanh mới (New turning point) về một chiến thắng áp đảo và tràn ngập về quân sự.

Nhưng Hà Nội chỉ chịu nói chuyện với một chính quyền mới trong đó không có Nguyễn Văn Thiệu và phe đảng của ông ta. Và rằng trở ngại cuối cùng để đưa đến một cuộc đàm phán chính là Nguyễn Văn Thiệu. và Người Mỹ thì vẫn ngoan cố không chịu chấm dứt sự can thiệp bằng quân sự vào cuộc chiến tranh.

Kissinger thất bại trong cuộc đàm phán Do Thái-Ai Cập

Những cố gắng ngoại giao trong những ngày gần đây xem ra đã tan ra mây khói. Chính sách ngoại giao con thoi (Shuttle diplomacy) của Kissinger đã chấm dứt bằng sự thất bại vì không đưa được Do Thái-Ai Cập xích lại gần nhau để bàn thảo về tương lai giữa hai nước về việc giải trừ binh bị. Mặc dù gặp thất bại, Kissinger vẫn không ngừng gặp gỡ đôi bên. Ông vẫn hy vọng hai bên đạt được một thỏa hiệp!

Refugees plight hopeless

Hoàn cảnh của hơn một triệu người hiện nay còn bị kẹt lại Đà Nẵng coi như hết hy vọng. Ít lắm trong số đó có khoảng 120.000 người tỵ nạn có hy vọng được vớt ngoài biển. Đạn trọng pháo của cộng quân vẫn tiếp tục nã vào Đà Nẵng.

Hiện nay có khoảng 20 tầu biển đang đậu ngoài khơi hải phận quốc tế để cố gắng tìm cách đưa những người tỵ nạn còn bị kẹt trong đất liền. Nhưng xem ra khó có hy vọng làm được điều gì. Làm thế nào người tỵ nạn có phương tiện để ra gặp tầu biển đậu ngoài khơi? Xem ra mọi chuyện đã quá trễ và hết hy vọng? Họ phải có những tầu đổ bộ (Landing ship transport) chở ra tàu lớn.

Chính quyền miền Nam đã nhờ Mỹ can thiệp với Hà Nội để cho những người tỵ nạn ở Đà Nẵng được ra đi thong thả. Hà Nội trả lời là không thể nào có cuộc ngưng bắn đi kèm với việc để những ngươi tỵ nạn ấy ra đi! Chấm hết.

Ngày 2 tháng tư, 1975

Theo tin của đài Hà Nội, một chính quyền mới nay đang có trách nhiệm ổn định lại trật tự ở Huế. Một số viên chức cao cấp như cảnh sát và nhân viên chính phủ bị kẹt ở lại được biết đã bị đem ra xử bắn ngay tức khắc.

Và như một màn kịch cùng ngày, tướng Thiệu ra lệnh tướng Trưởng phải tái thiết lập Quân đoàn 1 dể phản công lấy lại toàn vùng.

Tường Trưởng nghe được lệnh này chắc phải vừa cười, vừa khóc.

Đã ít nhất hai lần, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã ra những lệnh trái ngược nhau liên quan đến Quân khu I.

Cuộc triệt thoái khỏi vùng I đã phải trả giá đắt. Với 3 triệu dân chỉ có hơn 70 chục ngàn thoát chạy khỏi vùng I mà phần lớn thoát chạy bằng đường biển.

Nay đến lượt thành phố Nha Trang phải di tản. Hôm nay là ngày thứ ba, 2 tháng Tư. Thành phố nhốn nháo với dân tỵ nạn và họ tìm cách chạy ra khỏi thành phố bằng đủ phương tiện. Phần đông họ dùng đường bộ để chạy ra Cam Ranh, cách Nha Trang 40 dặm về phía Nam.

Trong số những người tỵ nạn, một số không nhỏ chạy về từ Cao Nguyên và một số chạy vào từ Đà Nẵng mới được vài ngày nay lại một lần nữa chạy khỏi Nha Trang.

Tuy nhiên các chức sắc trong thành phố cũng như những người có tiền của, có phương tiện do kinh nghiệm từ Đà Nẵng, họ đã tìm cách đi vào Sài gòn trước khi tình trạng rối loạn ở Nha Trang xảy ra. Tuy vậy, những cảnh tượng hỗn loạn xảy ra ở Đà Nẵng nay tái diễn ở đây ở mức độ nhỏ hơn. Nhà tù được mở cửa tạo thêm sự hỗn loạn với nạn cướp hóc vốn đã có sẵn.

Chương trình Orphan Airlift bị bãi bỏ

Theo tin của hãng AP từ Sài Gòn đánh đi cho hay dự định cho 500 trẻ em mồ côi được phép đi sang Mỹ dã bị bãi bõ. Chương trình này do tổ chức có tên là Friend of all Children được 4 bác sĩ và 17 nữ trợ tá gồm các quốc tịch như Mỹ, Úc và Anh trợ giúp.

Theo dự định, các trẻ em sẽ được chở đi trên các chuyến bay World Airways DC8 Cargo jet đến Chicago, ghé qua Tokyo và Hawaii.

Sau đó chẳng bao lâu lại có lệnh cho phép các trẻ em mồ côi được phép ra đi.

Ngày 3 tháng tư, 1975

Người dân Đà Nẵng lo trốn chạy cộng sản như thế, nhưng theo phóng viên John Burns của tờ The Globe and Mail cho hay, tại Bắc Kinh, tờ People’s Daily (Nhân dân nhật báo), trích dẫn một nguồn tin của báo chí cộng sản Hà Nội viết hàng trăm ngàn thường dân ‘Who had been forced to retreat with the ennemy from Danang, firmly frustrasted the vicious ennemy scheme and return to city, where they gave the liberation armed forces a rousing welcome’. (Bị áp lực rút theo bọn kẻ thù xấu xa, đã quay trở về thành phố Huế và hoan hô chúc mừng quân đội giải phóng).

Bài báo còn cho biết thêm, chính ‘ngụy quyền’ miền Nam đã vi phạm Hiệp Định Ba Lê chứ không phải người cộng sản.

Bà Betty Ford, phu nhân Tổng thống Ford

Theo tin hãng AP, tại Los Angeles, bà Betty Ford, phu nhân Tổng thống Ford, bà rất lấy làm xúc động khi thấy hoàn cảnh một số trẻ em Việt Nam và bà mong muốn nhận chúng làm con nuôi. Bà Ford đã nói trong một buổi họp báo trong lúc đang đi nghỉ hè tại Palm Springs, bà nói bà ủng hộ chương trình cứu một số trẻ em của Tổng thống Ford, Orphans Airlifts. Bà nói thêm, “Tôi thấy rằng những trẻ em cũng là những đứa trẻ và chúng cũng cần có những cơ hội lớn lên như các con em của chúng ta.”

Where is Thi My Kieu?

Cũng theo tin AP, tại Pompano beach, Florida, trong một căn phòng mới được trang hoàng dán giấy mầu hồng và mọi sự đã được chuẩn bị sẵn sàng. Vợ chồng luật sư Ed Oddo đã sốt ruột trông chờ đứa trẻ Việt Nam được nhận làm con nuôi được sang Hoa Kỳ. Đó là bé gái Kiều Thị Mỹ.

Vào hôm thứ tư, ông Ed Oddo nói, “It’s frustrating. We’ve waited so long. You Know, We’ve got her picture. We’ve planned and dreamed, like a family would for any new baby.”

Phần bà vợ ông Oddo, Christine, 25 tuổi hy vọng rằng đứa con nuôi ba tháng rưỡi tuổi sẽ đến đây cùng với cùng với các trẻ mồ côi khác trong chuyến bay sắp tới.

Ông nói thêm, chúng tôi đã làm tất cả những điều có thể làm để hy vọng Thi My Kieu có thể đến đây.

Tin tiếp tục ngày 3-4 | Horror of war behind for 52 Viet orphans

Theo tin của hãng UPI, tại San Francisco, 52 trẻ em Việt Nam mồ côi hiện đã đặt chân đến đất Mỹ tuổi từ 3 tháng đến 8 tuổi vào tối thứ tư tại phi trường Oakland International Airport trên chuyến bay World Airways cargo jet.

Các trẻ em dã để lại đằng sau hình ảnh một cuộc chiến tranh ghê sợ mà các em chưa nhận thức hết được. Một cuộc sống mới đang mở ra.

Chắc chúng còn mệt sau 16 giờ 53 phút bay từ Việt Nam sang đây. Sau đó chúng được chở bằng xe buýt đến Tổng hành dinh của quân đoàn thứ sáu để khám bệnh và làm thủ tục nhận con nuôi.

Sở dĩ chúng có thể đến được đây trong ngày hôm nay là do lòng can đảm và tận tụy của Đại úy Ken Healy đã bất chấp lệnh từ Sài Gòn do trạm không lưu ngăn chặn không cho cất cánh bằng những chiếc phi cơ DC8. Đại úy William Keating cũng có mặt trong chuyến bay cắt nghĩa thêm: we were instructed to hold our position by ground control. We ignore that. We taxied down the runway and took off’.

Các trẻ em mồ côi này đã vượt được đoạn đường dài 6.993 dặm từ Sài gòn đến San Francisco.

Họ còn chuẩn bị một căn phòng cạnh cây cầu Golden Gate để cho các em mới tới vui chơi. Cứ hai em thì có một tấm nệm và căn phòng được trang hoàng đẹp mắt. Cứ mỗi một em thì do một người lớn chăm sóc mọi thứ.

Ngày 4 tháng Tư, 1975: Vietnamese cabinet ousted!

Theo nguồn tin UPI, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã tuyên bố ngày hôm nay chấp nhận chính phủ của ông sẽ từ chức và được thay thế bằng ông Nguyễn Bá Cẩn, chủ tịch Hạ viện. Vẫn có dư luận đồn thổi trong dân chúng là ông Nguyễn Cao Kỳ sẽ làm đảo chánh. Ông Kỳ phủ nhận tin này.

Sự thay đổi này chỉ là một sự chút trách nhiệm cho người khác. Nó không phải là giải pháp giải quyết của tình thế. Trong những ngày gần đây, Ông Thiệu đẩy trách nhiệm rút khỏi Tây Nguyên cho tướng Phú, trách nhiệm rút Huế Đà Nẵng cho tướng Trưởng. Tất cả chỉ là những màn chạy tội.

Miền Nam chắc sẽ mất vào tay cộng sản vì Mỹ bỏ viện trợ. Quân đội miền Nam VNCH đã từng chiến đấu ròng rã trong suốt 21 năm không lẽ thua trong vài tuần?

Ngay cả trường hợp miền Nam bị thua và rơi vào tay cộng quân, chúng ta vẫn có thể chọn lựa cho mình một cách thua khác.

Không phải cách thua nhục nhã như thế này!

Tướng Weyand, một đặc sứ của Tổng thống Ford gửi sang Việt Nam xem xét tình hình Việt Nam vẫn có thể tuyên bố như sau, “The North Vietnamese army… can be defeated.”

Chiến dịch ‘Operation Babylift’

Trong lúc cuộc chiến tranh ở miền Nam sắp sửa đi đến chỗ kết thúc. Một trong những người tích cực nhất trong việc di tản một số người Việt ra khỏi đất nước họ là ông Bộ trưởng bộ di trú Canada, ông, Robert Andras. Ông đã cho đặt thêm một emergency desk ngay trong văn phòng làm việc của ông để giải quyết vấn đề người tỵ nạn Đông Dương.

Việc làm ấy nằm trong cái tinh thần mà Peter Duschinsky, trong CIHS Bulletin, nhân dịp kỷ niệm 40 Năm sau 1975 với nhan dề bài viết The Human Side of the fall of Saigon.(12)

Cuộc chiến ấy nhiều mặt là một bi kịch chiến tranh, nhưng cũng là một thảm họa của nhân loại xét vế mặt con người.

Và sự cứu vớt người tỵ nạn ra khỏi cuộc chiến ấy, mặc dầu chỉ là như muối bỏ biển, cũng vẫn mang tính con người. Trong đó người ta nghĩ đến hàng triệu số phận trẻ em mồ côi của miền Nam mà con số may mắn được cứu vớt chỉ khoảng vài ngàn trẻ em.

Tuy nhiên, ngay chuyến bay đầu tiên, chiến dịch ấy đã tự nó mang một thảm họa vô cùng thảm khốc.

Ngày 4 tháng Tư. Thảm hoạ trên không

Hôm này có thể nói cũng là ngày tang thương cho số phận một số trẻ mồ côi trên chiếc máy bay khổng lồ của quân đội Mỹ, chiếc C-5A Galaxy đã cất cánh sau một thời gian ngắn với 305 trẻ em mồ côi để đi Mỹ. Tất cả những em ngồi ở phần đuôi máy bay thì không có hy vọng sống sót. Ít nhất có 178 trẻ em và người lớn bị chết. Cánh cửa phi cơ nổ tung do một số ổ khóa cửa hỏng gây ra, cánh cửa ở phần đuôi máy bay (cargo door) bị bung ra, phi cơ mất cao độ và viên phi công cố gắng quay trở về Tân Sơn Nhất, nhưng đã không thành công.

Trẻ mồ côi tử nạn trong chuyến bay đầu tiên của Chiến dịch Babylifts được đưa đi hỏa thiêu ở Utapao và an táng tại một nghĩa trang Thiên chúa giáo ở Pattaya, Thailand. Nguồn: OntheNet

Trẻ mồ côi tử nạn trong chuyến bay đầu tiên của Chiến dịch Babylifts được đưa đi hỏa thiêu ở căn cứ Utapao và an táng tại một nghĩa trang Thiên chúa giáo ở Pattaya, Thailand. Nguồn: OntheNet

Trường hợp này cũng giống như trường hợp chiếc DC 10 cũng đã nổ tung ra khi gần tới Paris năm 1974 làm chết 345 người.

Theo nguồn tin của AP thì tòa đại sứ Hoa Kỳ cho rằng có khoảng 100 em mồ côi còn sống sót cộng với 10 đến 15 người lớn. Số người sống sót bao gồm cả viên phi công. Trực thăng đã đến hiện trường và chở 63 em còn sống sót đến nhà thương Seventh-day Adventish hospital.(13)

Các em còn sống, mắt mở to ngơ ngác, không khóc và im lặng. They did not speak. They did not cry. Người ta đã chứng kiến và viết lại cái cảnh tượng đó như thế.

Việc phi cơ chở trẻ em mồ côi bị rớt trở thành một thảm kịch của những ngày tàn cuộc chiến.(14)

Ông Phan Quang Đán là một trong số những người phản đối chương trình này. Và theo tin của UPI vào ngày 7 tháng tư, chương trình mới lại được chính phủ Sài Gòn cho tiếp tục trở lại. Trong khi đó thực sự đã có chuyến bay chở trẻ em côi đến Mỹ và đến Canada.

Tại thủ đô Ottawa, ông bộ trưởng di trú Robert Andras cho hay có 300 gia đình ở tỉnh bang Ontario và 100 gia đình ở Nova Scotia bày tỏ ý muốn nhận các trẻ mồ côi đến từ Việt Nam chỉ sau ít giờ sau khi nhận được thông báo.

Hiện nay thì có hai chuyến bay sẽ đến Sài Gòn và mỗi chuyến bay sẽ chuyên chở 250 em mồ côi. Chính phủ Liên bang đã chấp thuận một quỹ là 76.000 đô la cho việc chuyên chở này.

Một vị ân nhân ẩn danh là một phụ nữ cho biết, “Tất cả điều chúng tôi mong muốn hiện nay là giúp các trẻ em mồ côi đó ra khỏi Việt Nam.” Cũng sẽ có 30 người tình nguyện đáp máy bay đi Sài Gòn để giúp đưa các trẻ mồ côi trong chuyến đi này.

Ngày 4 tháng tư, ông bà Tổng thống Ford có chương trình đón tiếp các trẻ em mồ côi trong chuyến bay đầu tiên đến Mỹ.

Đây là chuyến bay đầu tiên đến Mỹ nếu không kể chuyến bị rớt trước đó. Chuyến bay này chở 243 em mồ côi sang Mỹ. Chuyến bay sẽ dừng lại ở căn cứ không quân Clark Air Force bên Phi luật Tân, sau đó tiếp tục bay sang California. Chính ở nơi đây, ông bà Ford sẽ đón tiếp các em mồ côi.

Nhiều người nghĩ rằng đây chỉ là một màn kịch dở. Tổng thống Ford đã từng quay lưng trong việc không hỗ trợ Việt Nam trong cơn nguy khốn. Việc đón tiếp này vì thế có thể đặt dấu hỏi?

Cũng chính vì thế mà có những nhà báo như W.A.Wilson viết bài với nhan đề, “Trẻ em Việt Nam không nên bị bốc ra khỏi quê hương xử sở của chúng”. (Vietnamse children should not be taken from homeland).

Việc đưa các trẻ em sang Mỹ cho thấy sự ích kỷ và tính toán của họ.

Trên đây chỉ là một quan điểm nhìn của một số người không nhất thiết được mọi người đồng ý.

Ngày 7 tháng Tư

Hôm nay đã là mồng 7 tháng Tư, coi như vừa đúng một tháng sau cuộc tấn công của cộng quân vào Ban Mê Thuột. Có dư luận cho rằng tướng Phú bị cộng sản lừa. Chúng làm nghi binh như thể đánh Pleiku và tướng Phú tin chắc như thế nên đã nhất định để nguyên sư đoàn 23 bộ binh đóng chung quanh Pleiku. Sau này, nhiều vị chỉ huy tại chỗ đã trách tướng Phú, trong đó có đại tướng Cao Văn Viên.

Nhưng quyết định rút quân của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu là một quyết định sinh tử, như vận mệnh cho số phận quân dân vùng II chiến thuật. Quyết định tái phối trí, rút quân là một quyết định xem ra quá trễ. Cuộc triệt thoái khỏi cao nguyên là một thất bại quân sự. Trong số 20 ngàn quân rút lui vào ngày 16-3, đến ngày kéo về được đến Tuy Hòa chỉ còn sót lại có 5.000 người. Số còn lại hoặc bị giết hoặc rã ngũ trên đường rút lui.

Cộng sản tiếp tục đòi hỏi Nguyễn Văn Thiệu phải từ chức và thành lập một chính phủ mới để có thể thương thuyết với họ.

Chính quyền Sài Gòn ra lệnh ai gây rối sẽ bị xử bắn tại chỗ và lệnh giới nghiêm được nới rộng từ 9 giờ tối đến 5 giờ sáng.

Chuyến bay đẩu tiên trở 61 các em mồ côi người Việt Nam và Cambodia đến Vancouver, Canada theo nguồn tin CP là ngày 7 tháng tư, 1975.

Vì thế, sau này trong CIHS Bulletin, tại Canada, số ra kỷ niệm tháng Tư 1975 đã cho rằng việc mất Sài Gòn để lại ba dấu ấn nổi bật và ấn tượng nhất:

    • Thứ nhất là cảnh trốn chạy khỏi Đà Nẵng trên các bãi biển.
    • Thứ hai là quang cảnh chiếc C-5A, 6 ngày sau đó bị rớt với 135 trẻ mồ côi bị tử nạn.
    • Thứ ba là cảnh những người chạy vào tòa đại sứ Mỹ, đứng trên nóc nhà khi chiếc trực thăng cuối cùng rời khỏi nơi đây và bỏ rơi họ.

Đó là những sad endings!

Cũng ngày 7 tháng tư, 1975

Theo nguồn tin UPI, có khoảng 60 trái đạn pháo kích vào khu ngoại ô Sài Gòn, như vùng Nhà Bè, cách Sài Gòn 6 dậm. Điều đó cho thấy cộng quân đã tiến sát quanh Thủ Đô Sài Gòn, chỉ còn cách 8 dặm. Đây là những trái đạn pháo mở màn cho một cuộc tấn công sắp tới.

Hôm nay cũng là ngày chính quyền Cambodia thương thảo chấp nhận một cuộc đầu hàng vô điều kiện.

Năm năm trước, vào tháng Ba, năm 1970, tướng Lon Nol đã làm đảo chánh. Ông bỏ chính sách trung lập và tuyên bố sẽ chống trả lại Việt Nam cộng sản. Kissinger và Nixon nhảy vào, dùng B-52 bỏ bom quân đội cộng sản Bắc Việt. Trong vòng 5 năm, người Mỹ đã rót vào Cambodia 2 tỉ đô la.

Và một lần nữa, Người Mỹ bỏ cuộc để mặc cho số phận Cambodia rơi vào tay bọn Khmer đỏ và nạn diệt chủng đã xảy ra ngay sau đó.

Ngày 8 tháng tư, 1975

Theo tin AP, một phản lực cơ của quân đội VNCH đã dội bom và bắn rocket xuống dinh Độc Lập. Nhưng Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã tránh thoát và không bị thương.

Tổng thống Thiệu đã lên vô tuyến truyền hình và nói rằng, có một số cá nhân muốn ám hại ông với ý đồ muốn thay đổi chính phủ.

Tướng Trần Văn Minh, tư lệnh không quân đã lên tiếng là quân đội vẫn trung thành với Tổng thống Thiệu. Và đây chỉ là một hành vi của một cá nhân.

Tướng Kỳ lên tiếng và cho rằng ông không dính líu gì đến việc này. Nhưng yêu cầu ông Thiệu từ chức.

Ông Thiệu đã lên truyền hình và tuyên bố, “Tôi quyết định tiếp tục lãnh đạo xứ sở này.”

Cái câu nói nổi tiếng của Tổng thống Thiệu, “Đừng nghe những gì cộng sản nói mà hãy xem những gì cộng sản làm cũng có thể ứng vào trưởng hợp của chính ông Nguyễn Văn Thiệu.”

Võ Nguyên Giáp và Lê Duẩn chúc mừng Nguyễn Thanh Trung sau cuộc đánh bom Dih Độc Lạp ở Sài Gòn. Nguồn: VPAF museum

Võ Nguyên Giáp và Lê Duẩn chúc mừng Nguyễn Thành Trung (bìa phải) sau cuộc đánh bom Dih Độc Lạp ở Sài Gòn. Nguồn: VPAF museum

Sau này thì người ta được biết chiếc phản lực cơ ném bom dinh Độc Lập do Nguyễn Thành Trung lái từ Đà Nẵng. Sau đó Trung lái máy bay ở cao độ thấp, đáp xuống một phi đạo dài khoảng 915 m do Việt Cộng lập ở Phước Long, cách Sài Gòn 200 km về hướng Bắc.

Cuộc ném bom đã làm cho hai người chết và vài người bị thương.

Sài Gòn, ngày 8 tháng Tư, năm 1975: Tiếng súng tại mặt trận An Lộc bắt đầu

Câu hỏi đặt ra ở đây là liệu quân đội VNCH có giữ được phòng tuyến này không?

Chiếm được Xuân Lộc, đó là mục tiêu chiến lược của cộng quân. Nhưng họ cũng mong rằng qua thương lượng, political means, qua một cuộc đầu hàng có giàn xếp với một chế độ không phải Thiệu. Nguyễn Thị Bình, ở Paris, Bộ trưởng Ngoại giao của Chính phủ Lâm thời Miền Nam mong muốn đạt được mục tiêu, nếu có thể, mà không phải dùng đến những phương tiện quân sự. Nói với phóng viên tờ Le Monde, bà Bình mô tả hoàn cảnh ở miền Nam hiện nay là không thể đảo ngược được tình thế. Nhưng việc xử dụng quân lực hay sức mạnh quân sự hay không là tùy thuộc vào phía đối phương.

Ngày 9 tháng Tư: Secret US-Viet pact claimed. Tiết lộ những trao đổi thư từ bí mật giữa Mỹ và Việt Nam

Tùy viên Báo chí Tòa Bạch ốc Ronald Harold Nessen  đọc bản thông cáo báo chi ngày 9 tháng Tư trong cuộc họp báo cùng ngày. Nguồn: er “Vietnam - Correspondence from Richard Nixon to Nguyen Van Thieu” of the Richard B. Cheney Files at the Gerald R. Ford Presidential Library.

Tùy viên Báo chí Tòa Bạch ốc Ronald Harold Nessen đọc bản thông cáo báo chi ngày 9 tháng Tư trong cuộc họp báo cùng ngày. Nguồn: “Vietnam – Correspondence from Richard Nixon to Nguyen Van Thieu” of the Richard B. Cheney Files at the Gerald R. Ford Presidential Library.

Trong giai đoạn trước khi ký Hòa đàm Ba Lê, Tổng thống Nixon đã thuyết phục Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ký vào bản Hiệp Định với những lời hứa hẹn bảo đảm sẽ can thiệp vào Việt Nam. Nói chung có tất cả 27 lá thư trao đổi của Tổng thống Nixon gửi cho ông Thiệu. Sau đó tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng đã gửi cho ông Tổng trưởng Quốc Phòng là James R. Schlesinger một số trong những lá thư đó. Ông này bèn thông báo cho nghị sĩ Henry Jackson biết và ông Jackson đã tìm cách đăt vấn đề với tòa Bạch Ốc.

Cuộc họp báo của ông thượng ngị sĩ được diễn ra ngay từ 30 tháng Tư. Trong đó ông cho rằng Kissinger đã che dấu những lá thư này đến ngay Tổng thống Gérald Ford cũng như bộ trưởng Quốc Phòng Schlesinger cũng không hề biết.

Thượng nghĩ sĩ Henry Jackson nói tiếp: Đây là lần đầu tiên, Tổng thống Ford biết được những lá thư mật trao đổi giữa Nixon và ông Thiệu. Phía Việt Nam, tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng nói còn giữ đuợc tất cả 27 thư trong khi phía Mỹ không biết tại sao chỉ còn giữ được có 10 bức thư.(15)

Theo bản tin của AP tại Hoa Thịnh Đốn, thượng nghị sĩ Hackson chính phủ Hoa Kỳ có bổn phận tinh thần tôn trọng những thỏa thuận ngầm này. Về phần dân chúng hoa Kỳ, họ có quyền được biết về những thỏa thuận giữa hai bên mà đáng lẽ họ phải được thông báo đầy đủ.

Nếu cứ đúng như những nội dung mà Nixon đã cam kết với ông Thiệu là Hoa Kỳ sẽ ‘react vigorously’, can thiệp một cách mạnh mẽ nếu Bắc Việt xâm lăng miền Nam bằng quân sự.

Và nếu tôn trọng những lời cam kết như trên thì Quốc Hội Hoa Kỳ phải chuẩn chi viện trợ khẩn cấp mà Tổng thống Ford đòi hỏi.

Thế nhưng, theo tin của AP, Tổng thống Ford đã nói chuyện với các lãnh tụ Thượng viện Hoa kỳ rằng: “Ông không tìm bất cứ thấy bằng chứng gọi là bí mật trong những thỏa thuận giữa Hoa Kỳ và Việt Nam.”

Nói trắng ra Tổng thống Ford muốn phủi tay không muốn bằng bất cứ giá nào can thiệp vào Việt Nam nữa.

Rockefeller, Phó tổng thống, theo thông tấn UPI tại New Orleans trong một lởi tuyên bố: U.S. must decide, ông cho rằng nay là lúc Hoa Kỳ phải quyết định nay là lúc chúng ta phải đứng một bên, bởi vì chúng ta đã đảm nhận vai trò trách nhiệm thế giới trong mấy thập niên rồi. và hãy để cho Liên Xô nắm trách nhiệm trọng tài thế giới.

Cũng ngày 9 tháng Tư

Người ta nói đến một cuộc thanh trừng ở Nam Việt Nam nếu cộng sản Hà Nội nắm chính quyền.

Theo các tài liệu báo chí từ Nga thì nếu nắm được chính quyền miền Nam, họ sẽ thực thi chính sách 10 điểm. Tờ Pravda, cơ quan ngôn luận chính thức của Liên Xô nói tới:

Việc gấp rút để đưa cuộc sống người dân trở lại bình thường và thanh trừng những thành phần tay sai ngụy quyền. Trước hết thanh lọc hết các tổ chức hành chánh, lực lượng quân đội và các tổ chức bù nhìn của chế độ. Và trong một thời gian ngắn nhất thiết lập các cơ chế chính quyền cách mạng ở mọi tầng lớp dân chúng.

Tất cả tùy thuộc vào hai chữ thanh trừng (Liquidation).

Nhiều người Việt Nam chắc đã không quên khi chiếm được miền Bắc, cộng sản đã áp đặt chính sách cải cách ruộng đất (Land reform) và chính sách tập thể hóa (Collectivization) nhằm loại bỏ các chủ đất. Theo tác giả Bernard Fall, các đợt thanh trừng này đã giết hại 50.000 nông dân và bắt 100.000 người bị tù đầy.

Tất cả chúng ta chờ xem mức độ thanh trừng sẽ được diễn ra như thế nào?

Ngày 11 tháng Tư, sinh viên Việt Nam du hoc tại Montreal biểu tình

Sinh viên Montreal biểu tình ở Quốc hội Canada, tháng 4, 1975. Nguồn: CP

Sinh viên Montreal biểu tình ở Quốc hội Canada, 11 tháng 4, 1975. Nguồn: CP

Có một nhóm khoảng 50 sinh viên Việt Nam cầm các biểu ngữ đi diễn hành ở trước tiền đình Quốc Hội Canada. Và họ kêu gọi có một chính quyền mạnh hơn chính quyền hiện nay để có thể đương đầu với sự tấn công của cộng sản Hà Nội vào miền Nam.

Lê [Nguyên] Khanh, một trong những phát ngôn viên của Hội Sinh Viên Việt Nam tại Montreal cho hay hầu hết những người tham dự cuộc biểu tình này đều là giới sinh viên Việt Nam du học mong muốn có một chính quyền mới đủ mạnh để đương đầu với sự xâm lăng của cộng sản Hà Nội.

Nhân dịp này, anh Lê [Nguyên] Khanh cũng cám ơn chính phủ Canda cũng như dân chúng Canada đã giúp đỡ một cách nhân đạo cho miền Nam Việt Nam như thực phẩm, thuốc men.

Trong các biểu ngữ, người ta đọc được một biểu ngữ với hàng chữ, “Stop Red”.

Cũng theo phát ngôn viên của tổ chức sinh viên ở Montréal, họ không thấy thích thú gì việc quảng cáo tuyên truyền cho Operation Babylifts. Nhưng anh nói thêm, nếu những trẻ con này tìm được những cha mẹ nuôi tốt thì cũng tốt cho các trẻ em.(16)

12 tháng tư, 1975

So chính quyền ở Pnom Penh và chính quyền của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu vào giờ phút này thì xem ra các lãnh đạo nước láng giềng tỏ ra cương quyết ở tại chỗ để đương đầu với cộng sản.

Tướng Sak Suthsakhan, tướng chỉ huy quân độin Cambodia tuyên bố: việc chống đối lại quân Khmer rouge vẫn được tiếp tục.

Mặc dầu quân đội Khmer rouge hiện nay, có khoảng 10 ngàn người, đã đến làng Samrong chỉ còn cách phi trường Phnom Penh có một dặm. Có khoảng 1000 quân lính chính phủ hiện đang trấn đóng dọc theo đường xe lửa, song song với đường số 3 dẫn đến phi trường.

Dân chúng bằng đủ phương tiện đang ùn ùn kéo về thành phố. Cảnh sát đã bất lực không ngăn cản được dòng người kéo vào thành phố.

Thủ tướng Long Boret vẫn còn có thể nói, “We will never surrender.” Nhưng rõ ràng là chẳng bao lâu nữa, quân phiến loạn sẽ tràn ngập thủ đô.

Long Boret cùng với bảy nhân vật chính trị và quân sự nhận lãnh trách nhiệm sau khi đại tướng Suthskhan đã bỏ ra đi vào ngày thứ bảy.

Người Mỹ đã mở chiến dịch di tản ‘Eagle Pull’ và đã chở được 270 người Mỹ và người Cao Mên ra đi một cách êm ả. Người ta cũng đã không nghe một tiếng súng cũng như không một ai bị thương trong cuộc di tản này!

Phúc trình cuối cùng của Mỹ cho hay hoàn cảnh quân sự chung quanh thủ đô hầu như tuyệt vọng và xấu đi từng giờ. Và việc mất Phnom Penh là điều không còn gỉ để nói nữa.

Adieu Phnom Penh! Con đường dẫn đến Sài Gòn nay đã được mở rộng thêm!

Ngày 12 tháng tư. Việc chuyên chở 16 tấn vàng sang Thụy Sĩ. Vàng đó là của chung giữa Việt Nam Và Cam Bốt?

Trẻ thơ mồ côi trên đường đến phi trường LAX (Los Angeles) ngày 12 tháng 4, 1975. Ảnh: OntheNet

Trẻ thơ mồ côi trên đường đến phi trường LAX (Los Angeles) ngày 12 tháng 4, 1975. Ảnh: OntheNet

Theo tin UPI từ Nữu Ước cho hay chính quyền VNCH đã cố gắng một cách tuyệt vọng để thuyết phục hãng Hàng Không Swiss Charter Airline để chuyên chở 16 tấn vàng từ Sài Gòn sang Thụy Sỹ.

Hãng Balair, đại diện cho hãng hàng không Thụy Sỹ từ chối việc chở 16 tấn vàng vì quá nặng và vấn đề cân bằng cho phi cơ. Theo tin từ Time cho rằng việc chuyên chở vàng này có dính dáng đến một hai nhân vật cao cấp như Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và tổng thống Cam Bốt Lon Nol.

Ở một đoạn văn khác được trích dẫn cũng nói rõ thêm như sau, “The airline also was concerned that the bullion might be part of the official reserves of the two countries. The gold apparently still in Saigon. Time said.”

Phải chăng số vàng đó có một phần là tài sản của Cambodia?

Tài liệu cho thấy số vàng 16 tấn không phải là của Viêt Nam mà có phần của Cao Mên. Phần là bao nhiêu thì không rõ. Thực sự chưa có tài liệu để nói rõ thêm về việc này.

Điều rõ ràng nhất là số vàng ấy sau này trở ra Bắc, rồi từ Bắc trở sang Liên Xô trả nợ.

Trẻ em mồ côi giả?

Trong số 56 trẻ em mồ côi đến Toronto để giao cho các cha mẹ nuôi, người ta phát hiện ra bé gái Phan Lợi không phải trẻ em mồ côi mà là con gái của một nhân viên làm việc cho lãnh sự Mỹ.

Bà Helen Allen, một phát ngôn viên của bộ di trú cho biết họ sẽ phân loại và hỏi xem đứa bé cảm nghĩ gì và điều gì đã thực sự xảy ra.

Người thông dịch viên ở San Fran Francisco tuần vừa qua cũng cho biết nhiều cha mẹ việt Nam lo sợ cho tương lai con cái họ nên đã tìm mọi cách để chúng có thể ra đi nước ngoài.

Điều này sau này xảy ra những vụ kiện pháp lý gay go. Cha mẹ ruột đứa trẻ tìm đủ mọi cách để đòi lại con mình.

Thật là không biết phải nói thế nào. Ai là kẻ được con và mất con?

Phần các trẻ em mồ côi khác thì được các cha mẹ nuôi đón tiếp với nước mắt và nỗi vui mừng.

Theo tin của AP, San Francisco, bà Jane Barton, thông dịch viên cho hay, bà có nói chuyện với 4 trẻ em và ba em cho biết họ là con của một đại tá và người thứ tư là cháu của vị đại tá ấy. Rõ ràng là có sự giàn xếp để cho cái một số người có tiền của, các viên chức cao cấp muốn cho con em của họ được đi ra ngoại quốc một cách an toàn.

(Còn tiếp)

© 2015 DCVOnline

Nếu đăng lại, xin đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net”

(7) Frank Snepp, Ibid, trang 247

(7a) SS Pioneer Contender là tàu buôn dân sự chở hàng khô dài 333 bộ. Thuyền trưởng là Edward Flink do hải quân Mỹ (MSC) thuê làm theo khế ước. Con tàu bắt đầu nhiệm vụ tại Việt Nam trong tháng Ba, năm 1975, cung cấp dịch vụ vận chuyển phi quân sự và giao thông nội bộ cho quân đội VNCH và dân Việt Nam đang di tản, và những người lính Nam Việt có vũ trang. Điển hình của sự tàn ác của quân đội miền Nam Việt với những kẻ bi tình nghi là cảm tình viên của Cộng quân Bắc Việt, là những vụ xử án, ám sát, và giết người khủng khiếp trên con tàu. Rời Đà Nẵng là lúc tồi tệ nhất. Không có mặt của an ninh hàng hải trên tàu lúc đó. (Nguồn: Personal Account – PFC Matthew Phair, Hq. Co., 9th Marines/Detachment Victor)

(8) Frank Snepp, Ibid, trang 241

(9) Peter Duschinsky, “The Human Side of the Fall of Saigon”, CIHS Bulletin, Issue #73, April 2015, Canadian Immigration Historical Society. Trang 2-3

(9a) Employment and Immigration Canada, “The Indochinese Refugees: the Canadian Response, 1979 and 1980” (1981, Department of Supply and Services)

(10) Gilbert Gendron, B.A, “The Viet cong Front in Quebec”, trang 9-10

(11) Peter Duschinsky, Ibid, trang 2.

(12) Peter Duschinsky, Ibid, trang 1-5.

(13) Trong một cuốn sách Giá Tự Do mới xuất bản và được giải thưởng Văn Học, do Hội Quốc Tế Y sĩ Việt Nam Tự Do trao tặng giải thưởng Văn Học 2014, không biết dựa trên tài liệu nào, tác giả Lâm Vĩnh Bình đã viết rằng: ‘Tuy nhiên, chuyến bay đầu tiên đã gặp một tai nạn thảm khốc khi chiếc phi cơ trở 300 người gồm trẻ em và người lớn đi theo để săn sóc, vừa cất cánh phi trường Tân Sơn Nhất đã rơi vì phi cơ quá tải, 136 người đã tử nạn. Nguồn: Lâm Vĩnh Bình, Giá Tự Do, trang 2.

(14) Xem thêm Simon Parry, “Vẫn không nguồn cội” do Trà Mi dịch, DCVOnline.net, 13 -04-2015 đã trích lời các nhân chứng còn sống sót, cho hay có 313 người trên máy bay. Phi công lái máy bay là Dennis ‘Bud’ đả can đảm cứu được 175 người sống sót. Simon Parry, Still rootless: the child refugees of Vietnam war’s chaotic final days, Red Door News Hong Kong, April 2015.

(15) Nguyễn Tiến Hưng, “Khi đồng minh tháo chạy”, trang 460-461.

(16) CP, “Vietnamese thank Canadians”, The Brandon Sun – Brandon, Manitoba – Apr 12 1975

40 năm nhìn lại những ngày mất Sài Gòn (Kết)

Nguyễn Văn Lục

tranh_tiec-thuong

40 năm nhìn lại ngày 30 tháng Tư, chỉ mong rằng sau này, người ta biết coi là một bài học đau thương của cả một dân tộc.

15-4, 1975 | Phúc trình về số vũ khí viện trợ còn lại ở miền Nam

Theo thông tin của hãng AP, tin từ Ngũ Giác đài cho hay số vũ khí, đạn dược, máy bay bị hủy hoại hiện nay tính bằng tiền là 780 triệu Mỹ kim. Nhưng nếu tính cá các kho hàng, phi trường, bến cảng thì số tiền lên đến từ 5 đến 10 tỷ. 300 máy bay mà một nửa là trực thăng đã bị mất, hoặc bất khả dụng vì thiếu phụ tùng thay thế.

Trong cuộc triệt thoái Tây nguyên, chúng ta để mất hầu như hơn phân nửa các xe tải, súng đại bác cũng như các xe tăng.

15- 4 | Lời tuyên bố của Thái tử Sihanouk

Theo tin cua hãng Reuters, từ Paris cho hay, thái tử Norodom Sihanouk của Cam Bố tuyên bố, ông sẽ rút lui khỏi chính trường trong trường hợp chính quyền hiện tại rơi vào tay cộng sản. Ông nói, “Sau chiến thắng, tôi tin chắc là tôi sẽ rút lui. Tôi đã ở ngôi vua từ lúc 18 tuổi cho đến nay tôi dã 52 tuổi. Tôi nghĩ rằng tôi đã phục vụ đầy đủ xứ sở của mình.” Ông nói thêm, “Tôi không phải người cộng sản, tôi cũng không phải Khmer rouge. Tôi không muốn là thứ bù nhìn của Khmer rouge.”

15-4, 1975 | Sau 7 ngày bị bao vây và pháo kích liên tục

Nguồn: Gucci

Bản đồ mặt trận Xuân Lộc , tháng Tư 1975. Nguồn: Gucci | vnafmann.c0m

Xuân Lộc (Long Khánh), sau 7 ngày đêm bị bao vây và phái kích liên tục. Nhưng vẫn đứng vững. Phát ngôn viên quân đội Việt Nam cho hay hiện nay họ rút ra bên lề thành phố.

Về phía cộng sản, sau 7 ngày giao tranh, Văn Tiến Dũng đã liên lạc với Bộ chính trị tại Hà Nội cho thêm thời gian để tổng tấn công Sài Gòn.

Văn Tiến Dũng nhận định rằng sư đoàn 18 của tướng Lê Minh Đảo đa cầm cự một cách dũng cảm. Mặt khác, tướng Nghi ở Phan Thiết cũng gây cản trở không ít cho việc tiến quân từ Phan Rang vào. Các cánh quân từ vùng một chưa thể kịp thời điều động kịp thời vào miền Nam để tiếp tay đánh chiếm An Lộc

Bộ chính trị từ Hà Nội đã cấp thời trả lời: Đồng ý thời hạn cho chiến dịch Hồ Chí Minh. Trong bức điện tín ký tên Lê Duẩn.

Tin buồn cho Xuân Lộc là Phan Rang đã mất. Phần phi trường Biên Hòa thì bị cộng quân pháo kích nặng nề và trở nên tê liệt. Việc tiếp tế cũng như hỗ trợ bỏ bom bị giới hạn rất nhiều. Số phận An Lộc sẽ tùy vào đó để có thể đương đầu với sự tấn công của cộng quân.

Nhưng trong suốt cuộc thoái quân của quân đội VNCH, người ta thấy rằng nếu muốn, chúng ta có thể cầm cự lâu hơn là chúng ta tưởng! Xuân Lộc đứng vững từ 9 đến 22 tháng Tư, 1975 là một bằng chứng.

Sáng ngày 15 tháng tư, 1975

Đây là lần đầu tiên, phi trường Biên Hòa bị pháo kích. Đoàn 325 từ Huế đã vào vị trí tân công ở Xuân Lộc. Trung bình một ngày Xuân Lộc nhận lãnh 2000 quả đạn pháo kích. Một đơn vị quân đội ở phía Đông Xuân Lộc đã được trực thăng bốc đi.

Tình hình quân sự càng lúc càng tỏ ra lún sâu thì các vận động chính trị càng trở nên ráo riết.

26 nhà chính trị ở Sài Gòn trong một thông cáo vào ngày 13 thúc dục chính quyền nhường lãnh thổ để có thể để đạt tới ngưng bắn.

Tinh thần chủ bại lan rộng vào nhiều tầng lớp dân chúng.

TT Trí Quang, nổi tiếng một thời, tuyên bố một cách buồn bã vào ngày 15-4 là “Chiến tranh đã thua. Tất cả mọi chuyện, ngay cả tín ngưỡng rồi cũng sẽ bị tiêu diệt khi cộng sản nắm chính quyền.”

Lời tuyên bố muộn màng. Nhưng có còn hơn không!

16 tháng tư, 1975

Bản đồ VNCH Ngày 16 tháng Tư. Nguồn AP

Bản đồ VNCH Ngày 16 tháng Tư. Nguồn AP

Cánh quân ở Phan Rang với 2500 binh sĩ đã rút lui khỏi Phan Rang bằng đường biển, khi bị cộng quân với quân số 5000 người tấn công có xe tăng yểm trợ. Phan Rang cách Sài Gòn 165 dặm.

Cộng quân nay kiểm soát 18 thành phố trên tổng số 44 và chiếm hai phần ba lãnh thổ miền Nam.

Nguồn tin quân sự cho hay sau khi quân đội VNCH rút đi, máy bay đã đến bỏ bom phi trường Phan Rang. Có thể có hai sĩ quan cao cấp của VNCH đã bị cộng sản bắt cầm tù.

Cũng ngày hôm nay, phi trường Biên Hòa tiếp tục bị pháo kích và bộ chỉ huy của quân đoàn III. Có 4 máy bay phản lực F5 đã bị phá hủy và căn cú không quân Biên Hòa phải tạm đóng cửa.

Sư đoàn 18 đóng ngoài Xuân Lộc cho đến lúc này cũng khó thoát khỏi bị tràn ngập. Hàng ngàn quả pháo đã rót vào Gia Kiệm, cách Xuân Lộc 8 dặm và có khoảng 2000 binh sĩ sư đoàn 18 đang trấn giữ ở đó. Gia Kiệm cách Sài Gòn 38 dậm.

Người ta nhận thấy cộng quân dùng chiến xa của VNCH bỏ lại khi tháo chạy để tấn công ngược lại binh sĩ VNCH. Tinh Thần binh sĩ vì thế càng xuống thấp.

Ngày 16 tháng Tư | Tin vui hay tin buồn

Theo tin của UPI, từ Washington cho hay Quốc Hội Hoa Kỳ vừa chấp thuận chuẩn chi 200 triệu đô la để giúp việc di tản 5000 người Mỹ và 174.000 người Việt Nam. Thượng nghị sĩ John. J. Sparkman thuộc tiểu bang Alabama nói thêm rằng Quốc Hội cũng cho phép di tản ngay 4000 người Mỹ nội trong tuần này, còn lại 1000 người trong tuần sau. Ngoài ra còn có khoảng 200 triệu cho viện trợ nhân đạo.

Cho đến lúc này, Kissinger còn yêu cầu Quốc Hội Mỹ cấp tốc chuẩn chi 1.3 tỉ đô la cho Việt Nam.

Khả năng và sức mạnh duy nhất mà quân đội miền Nam có được là các cuộc thả bom xuống các vùng do địch chiếm đóng. Vậy mà phần đông các máy bay F-5 và A-37 tại căn cứ không Biên Hòa không cất cánh được vì các cuộc pháo kích của cộng quân.

Chỉ có không quân mới có thể làm chậm bước tiến của cộng sản.

Và theo các giới chức Hoa Kỳ, không có máy bay, VNCH sẽ bị tràn ngập bởi ưu thế về người và ưu thế quân sự và những tuần lễ tới đây là những tuần lễ quyết định cho số phận miền Nam. Đã thế, do sự cung cấp của Nga Xô các loại hỏa tiễn surface-to-air missile đã làm giảm thiểu khả năng uy thế của máy bay của không lực Việt Nam.

Ngày 20 tháng tư, 1975

Đại sứ Mỹ Martin đến gặp Thiệu không phải với tư cách đại diện nước Mỹ hay đại sứ Mỹ mà như một người bạn để bàn vệc Thiệu cần ra đi. Cuộc nói truyện kéo dài khoảng một tiếng rưỡi đồng hồ. Đại sứ Martin không hẳn khuyến khích ông Thiệu từ chức. mà ông nghĩ rằng trước lúc chia tay, Tổng thống Thiệu hứa rằng, ông sẽ làm điều gì xét rằng tốt nhất cho đất nước của ông.

Ngày 22 tháng Tư | Thiệu từ chức

Trong diễn văn từ chức, ông Thiệu, một lần chót trước công chúng, đã có dịp trả một món nợ cho một người mà ông thù ghét nhất, Henry Kissinger.

“I never thought a man like Mr. Kissinger would deliver our people to such a disastrous fate.” – President Thieu in resignation speech.

Ông Thiệu đã có lý để làm như vậy trước khi từ chức.

Sau này dù Tổng thống Gerald Ford có phủ nhận giá trị ràng buộc những thư mật giữa Tổng thống Nixon và Tổng thống Thiệu thì điều đó cũng chỉ cho thấy, người Mỹ đã phản bội những lời hứa hẹn của Tổng thống Nixon. Thượng nghị sĩ Henry Jackson gọi đó là những thỏa thuận bí mật (secret agreement) không chối bỏ được.

Trước khi từ chức, ông Thiệu có gọi cho đại sứ Martin có thể nào giúp ông rời khỏi Việt Nam không? Dĩ nhiên là vì đại sứ Mỹ có thể làm được. Đại sứ Martin liền nhờ trùm tình báo Thomas Polgar lo việc này. Polgar lại giao trách nhiệm cho Frank Snepp. Ông này có bổn phận đến ông Thiệu ở tư dinh tướng Khiêm trực tiếp lái xe, đưa ông Thiệu ra phi trường và đại sứ Martin đã ở sẵn đó, có lời giã biệt Thiệu.

Trước lúc đó trên một chiế xe Volkswagen, tướng Timmes cùng với viên Đại sứ đi gặp tướng Kỳ. Ở đây, ông Đại sứ khuyên tướng Kỳ không nên hành động gì vì kết quả sẽ chẳng đi đên đâu.

Cũng được biết rằng trước đó, ông Hoàng Đức Nhã nhận được một cú điện thoại của Thủ tướng Lý Quang Diệu mời sang Singapore. Sang đến nơi, thủ tướng Lý Quang Diệu cho Hoàng Đức Nhã hay là người Mỹ đã dàn xếp để ông Thiệu có thể rời Việt Nam đến một nước nào đó thuộc Đông Nam Á.

Hoàng Đức Nhã gọi điện thoại về cho ông Thiệu. Ông Thiệu trả lời ông đang mong chờ tin tức như thế.

Cuộc ra đi của ông Thiệu cùng với Trần Thiện Khiêm cùng với vài sĩ quan phụ tá bay sang Đài Loan. Có tất cả 14 người trong chuyến bay đêm này. Tất cả bọn họ đều là đàn ông.

Thư cựu TT Nguyễn Văn Thiệu gởi TT Trần Văn Hương xin đi công tác. Nguofn: OntheNet

Thư cựu TT Nguyễn Văn Thiệu gởi TT Trần Văn Hương xin người đi công tác, 25/1975. Nguồn: OntheNet

Có nhiều người không ngờ rằng, đêm nay ông Thiệu và ông Khiêm lại cùng đến một điểm hẹn. Trước đây dư luận Sài Gòn cho rằng giữa hai người có nhiều khác biệt và thủ tướng Khiêm đang tìm cách để lật đổ ông Thiệu.

Rõ ràng là sai lầm. Ông Khiêm luôn luôn chứng tỏ là một người trước sau trung thành với ông Thiệu. Cũng có dư luận cho rằng ông Thiệu mang theo nhiều vàng. Theo ông trùm mật vụ Thomas Polgar, ông Thiệu đã không mang theo một chút vàng nào trong mười mấy chiếc valise của ông. Tổng thống Thiệu hiện có anh ông đang làm đại sứ ở Đài Loan, còn thủ tướng Khiêm cũng từng là cựu đại sứ VNCH tại đây. Người Mỹ đã dùng một chiếc máy bay DC-6 có thể bay đi bất cứ đâu mà không cần tiếp tế nhiên liệu.

Ông Thiệu còn cẩn thận xin Tổng thống Trần Văn Hương ký cho một sự vụ lệnh sang Đài Loan thăm viếng, lễ tang Tổng thống Tưởng Giới Thạch, mặc dầu ông này đã chết từ ngày 6 tháng Tư, và đã an táng hôm 16.

Tin TT Tưởng Giới Thach qua đời (7/4) và lễ an táng ngày 16/4cufng công văn viết tay ngày 25/4 của TT Trần Văn Hương cử cự TT Nguyễn Văn Thiệu và ĐT Trần Thiện Khiêm đi dự lễ an táng TT Trung Hoa Dân Quốc.

Tin TT Tưởng Giới Thach qua đời (7/4) và lễ an táng ngày 16/4 và công văn viết tay ngày 25/4 của TT Trần Văn Hương cử cựu TT Nguyễn Văn Thiệu và ĐT Trần Thiện Khiêm đi dự lễ an táng TT Trung Hoa Dân Quốc.

Còn lại là số phận miền Nam. The game is over!

Theo tin hãng AP từ Sài gòn thì nay Tổng thống Trần Văn Hương định giao cho tướng Minh làm thủ tướng chính phủ, nhưng nhất định từ chối lời yêu cầu của tướng Minh là vai trò tổng thống. Tổng thống Trần Văn Hương sau đó đã mời chủ tịch Thượng Nghị Viện Trần Văn Lắm để chính thức nhường ngôi vị cho ông Dương Văn Minh. Với sự chuẩn y của Quốc Hội. Với 134 thượng nghị sĩ còn sót lại đã tới dự bầu Minh làm tổng thống.(*)

Trong khi đó cộng quân vẫn tiến hành cuộc tấn công vào Sài Gòn và chờ đợi một giải pháp chính trị như họ yêu cầu.

Theo nguồn tin của tình báo phương Tây thì cộng quân đã ở vào vị trí sẵn sàng tấn công vào Sài gòn vào ngày thứ hai.

Nội các của thủ tướng Nguyễn Bá Cấn thì đã từ chức vào thứ tư vừa qua sau chỉ 11 ngày như một nội các tạm thời chờ được thay thế.

Những áp lực đòi Tổng thống Trần Văn Hương, 71 tuổi, rút lui để ông Dương Văn Minh có thể tạo một chính phủ mới mà cộng sản có thể chấp nhận thương thảo.

Phía bên kia, tướng Dũng gửi một điện cho tướng Tấn, “Phải vượt mọi khó khăn để chùng ta có thể ngày 29 tháng tư mở trận đánh cuối cùng vào Sài gòn.”

Nay dù đã thay ông Hương bằng Dương Văn Minh thì phía Hà nội đã cương quyết không có thương lượng gì cả, từ chối đàm phán với ông Minh.

Đó chỉ là những đòn phép chính trị giả mạo mà thôi.

Người Mỹ đã dùng trực thăng đưa được 4500 người ra tầu biển đậu ngoài khơi bờ biển Việt Nam.

Ngày 24 tháng tư, 1975. Viet Nam war finished for Americans-Ford

Vào tối thứ tư, Tổng thống Ford đã đến đọc một bài diễn văn tại đại học Tulane trước 4700 sinh viên đang vui mừng.

Tổng thống Ford tuyên bố, “Chiến tranh Việt Nam đã chấm dứt. Và ông kêu gọi người dân Hoa Kỳ ‘to write a new agenda for the future’.

Và ông cho rằng nay là thời gian để Hòa giải, hàn gắn những vết thương và những bất đồng để xây dựng một đất nước Hoa Kỳ tốt đẹp hơn cho tương lai.

Các sinh viên đã vỗ tay tán thường khi ông Ford tuyên bố,

26 tháng tư, 1975 | Một vớt vát cuối mùa

Theo tin của hãng AP, Tổng thống Trần Văn Hương đã khởi sự sẵn sàng nói chuyện với Bắc Việt về một giải pháp hòa bình. Ông Trần Văn Huong còn muốn gửi một bộ trưởng trong nội các ra hà nội để thăm dò quan điểm của Hà Nội. Một ngôn viên chính phủ còn cho biết, người Mỹ sẵn sàng cung cấp một máy bay của quân đội Mỹ bay ra Hà Nội.

Đó là những dự tính ảo tưởng, cuối mùa và tỏ ra đã quá trễ.

Trong khi đó thì tòa đại sứ Canada đã cuốn cờ, khăn gói về nước một cách lặng lẽ.

Trong khi đó Ngoại trưởng đương nhiệm của Canada, ông Mitchell Sharp tiết lộ cho hay Canada sẵn sàng chấp nhận 14.000 người Việt sang tỵ nạn Canda. Danh sách cũng như người bảo trợ đã được gửi cho chính quyền Việt Nam cách đây hai tuần. Nhưng Canada đã không nhận được sự chấp thuận chính thức nào. Hàng trăm người Việt đã tức giận đến trước cửa tòa đại sứ Canada. Và họ được ông Ernest Hebert yêu cầu họ quay lại ngày thứ Sáu xem có tin tức gì mới.

CBC DIGITAL ARCHIVES | Apr 24, 1975 | 4:40 | Peter Kent | Canadians pull out of Saigon

Trong khi đó, cộng quân có đủ khả năng để mở một cuộc tấn công vào Sài Gòn bất cứ lúc nào.

Cho đến giờ này đã có khoảng hơn 6000 người Mỹ đã rời khỏi Việt Nam, nay chỉ còn lại khoảng 1681 người tính đến ngày thứ tư tuần này.

Và trong một hai ngày nữa, con số sẽ tụ xuống còn 500 người.

American luxuries weakened S. Viet backbone

Chắc hẳn nhiều người sẽ không quên tên ký giả Malcolm W. Browne vào thời kỳ năm 1963 trong vụ Phật giáo.

Bài báo của M. Browne được đăng trên tờ N.Y. Times News Service. Ông ta đặt câu hỏi, tại sao quân đội VNCH lại rơi vào hoàn cảnh như hiện nay? Câu trả lới là quân đội miền Nam đã quá quen thuộc lối đánh nhau của con nhà giàu. Không bao giờ thiếu súng, thiếu đạn, tạo mọi điều kiện cho việc đánh nhau. Đi đâu có xe, có trực thăng chuyên chở. Đến nỗi mỗi khi di chuyển, không ai còn muốn đi bộ, lội rừng, lội suối. Vì thế cũng dễ bị phục kích. Cách đánh nhau như thế khác hẳn với bộ đội cộng sản. Có thể so sánh như một bên đi giầy, một bên đi đất.

Ôi! Lúc này bình luận gì, nói gì chả được!

South Viets use deadly fire bomb

Theo tin của UPI từ Sài Gòn gửi đi cho hay, quân đội Việt Nam được cung cấp loại bom lửa 5 tấn (five-ton fire bomb) có thể sát hại mọi thứ trong vòng bán kính 100 bộ anh.

Nguồn tin cho hay không quân Việt Nam đã xử dụng ít lắm là một lần.

Nguồn tin này được tiết lộ ra do đài phát thanh Hà Nội tố cáo không quân Việt Nam đã xử dụng một loại vũ khí mới. Họ tố cáo người Mỹ và Việt Nam đã vi phạm luật pháp quốc tế. Và tội phạm ấy chẳng khác gì tội phạm của Hitler trong quá khứ.

Loại bom này cùng một loại với bom Napalm, được thả xuống bởi các máy bay C-130 Hercules, bay ở độ cao 20.000 bộ tạo ra một quả cầu lửa làm bốc cháy tất cả, tạo ra hiện tượng thiếu Oxy làm cho con người chết nghẹt thở trong vòng bán kính 100 bộ Anh.

Theo nguồn tin của các binh sĩ VNCH cho hay họ đã thấy hàng chục những thây người bộ độ chết bề ngoài không thấy có vết thương gì. Và họ tin rằng đó là một vũ khí mới trong trận đánh ở Xuân Lộc, cách Sài gòn 38 dặm.

Ngày 28 tháng tư, tướng Minh lên nắm chức Tổng thống thay Trần Văn Hương

Các thành phần chính phủ Dương Văn Minh gồm luật sư Nguyễn Văn Huyền, Phó Tổng thống, ông Vũ Văn Mẫu, Thủ tướng. Người ta thấy vắng mặt trong những ngày cuối cùng của mộ số người thân tín của ông Dương Văn Minh như các ông Lý Chánh Trung, Hồ Ngọc Nhuận, Ngô Công Đức, Nguyễn Hữu Chung,…

Sự vắng mặt này có lý do của nó. Một số họ là những người có liên hệ chặt chẽ với cộng sản nên đã được khuyến cáo là không tham gia chính phủ, số khác đã lên tàu vượt biển.

Phần cuộc đời ông Dương Văn Minh có thể tóm tắt vào ba việc:

  1. Giúp ông Diệm dẹp Bình Xuyên, Bảy Viễn và đã được đền bù bằng số vàng tịch thu được của Bảy Viễn mà khọng khai báo. Sau đó còn được Ông Diệm cho một căn nhà rộng 270 m quay mặt ra Trần Quý Cáp và Hồng Thập tự.
  2. Thứ hai đã có công tham gia vào việc lật đổ ông Diệm cũng như ám sát hai anh em ông Diệm theo sự sắp xếp của Mỹ.
  3. Có công làm Tổng thống hai ngày mà mục đích chính là trao miền Nam cho cộng sản Bắc Việt.

Giờ tuyên bố đầu hàng

Cái giờ chính thức mà ông Minh tuyên bố đầu hàng trên đài phát thanh Sài Gòn là khoảng gần trưa

Trong khi đó số người tỵ nạn đến được đảo Guam là 40.000. Con số này sẽ còn tăng thêm trong vài ngày sau đó. Người trách nhiệm đứng đầu trông coi sắp xếp người tỵ nạn đến Guam là ông James Megellan. Họ cũng tiết lộ cho hay bà Nguyễn Cao Kỳ đã đến West Coast từ đêm thứ hai, ba ngày trước khi ông Nguyễn Cao Kỳ tố cáo những kẻ trốn chạy là hèn nhát. Bà Kỳ sẽ ở với bà con ở San Francisco.

Ông Kỳ khi đó cũng đã lên được chiến hạm USS Blue Ridge, chiến hạm chỉ huy của Hạm đội có trách nhiệm trong Chiến dịch Frequent Wind, di tản người Mỹ và một số đồng minh.

Các sĩ quan của Việt Nam thì theo thủ tục phải bị tước vũ khí và khám xét (submitted to the same body search as privates).

Một tướng ba sao đã mang theo bên mình một valise. (Trích trong journal News Services nhan đề: Hordes of refugees en route to US.)

Món nợ mà Kissinger phải trả với người Việt Nam

“Today, America can regain the sense of pride that existed before Vietnam. But it cannot be achieved by re-fighting a war that is finished as far as America is concerned.”

thetelegrap1975

Cuộc chiến nay đã chấm dứt. Hậu quả để lại nặng hai vai người Miền Nam.

Người Mỹ có thể ra đi mà không mất gì. Người Việt miền Nam bây giời mới thật sự họ đang phải chịu đựng một chế độ mới, Họ phải lên tiếng về chính sách của người Mỹ trong 6 năm qua. Người có trách nhiệm về chính sách ấy không ai khác là ngoại trưởng Kissinger.

Trong thất bại làm sụp đổ miền Nam ông chịu trách nhiệm một phần không nhỏ. Ít nhất ông cũng phải từ chức vì những chính sách thất bại của ông ở miền Nam.

Cũng vậy, khi nước pháp bại trận thì chính phủ Pháp phải xin tứ chức và đưa một người khác lên thay là Thủ tướng Mendes France. Nhờ đó Thủ tướng mới có thể rộng tay thương thuyết với phía cộng sản.

Trường hợp ông ngoại trưởng Kissinger có phần khác. Ông đã tiến hành một chính sách bất nhất, hoài nghi. Ông biết rõ những nhược điểm của ông mỗi khi cần thương lượng.

Hiệp định Ba Lê hoàn toàn là một sản phẩm của Kissiger với nhiều khoản nhượng bộ đến phi lý. Quan điểm hòa bình của ông chỉ là những điều khoản ràng buộc về trách nhiệm của Hoa Kỳ và Việt Nam để rảnh tay cho phía cộng sản.

Chính sách của Hoa Kỳ do một người soạn thảo, một người thương lượng, một người điều hợp tỏ ra không thực tế và ảo tưởng một người ký kết thỏa thuận bất chấp sự chống đối của đồng minh của Hoa Kỳ.

Cái hòa bình cũng như khả năng rút quân mà vẫn duy trì được ổn định nay trở thành một ảo tưởng và kết quả là miền Nam rơi vào tay cộng sản.

Cái hòa bình mà Kissinger lúc thì đề cao Peace at hand, lúc thì Peace in honor. Thực ra thì đó là Peace with horror!

Chúng ta hãy nghe lại những lời tuyên bố của Tổng thống Nixon về Hiệp định Ba Lê và ‘Peace With Honor’ trên đài truyền thanh và truyền hình Mỹ ngày 23 tháng Hai, 1973:

…, let us be proud that America did not settle for a peace that would have betrayed our allies, that would have abandoned our prisoners of war, or that would have ended the war for us but would have continued the war for the 50 million people of Indochina.

…, chúng ta hãy hãnh diện vì nước Mỹ không thương lượng một giải pháp hòa bình chỉ cho chúng ta mà có thể phản bội lại các đồng minh của mình và bỏ rơi tù binh Mỹ và có thểchấm dứt cuộc chiến cho mình nhưng chiến tranh vẫn tiếp tục đối với 50 triệu người dân Đông Dương.

Sau đó, Kissinger còn định ra Hà Nội quảng cáo cho cái Hòa bình giả hiệu ấy vào ngày 31 tháng 10, chỉ vài ngày trước ngày bầu cử Tổng thống Mỹ. Khi Hiệp Đinh đuợc ký kết, tình trạng quân sự của miền Nam càng ngày càng yếu đi, mất dần các phần đất đã kiên trì bảo vệ trong 21 năm.

Chúng ta chỉ cùng nhau đọc những điều giả dối trong Điều 11 là đủ:

Nguồn: OntheNet

Nguồn: OntheNet

Ôi. Đều là bánh vẽ thôi!

Ông Clark Clifford đã yêu cầu Kissinger phải ra đi. Và ngày hôm nay có những câu hỏi đặt ra về chính sách của Hoa Kỳ dựa trên quan điểm của Kissinger trong nhiều năm là một sự thất bại hoàn toàn. Chính sách ngoại giao con thoi và bí mật chẳng qua chỉ là để che đậy về những yếu kém và nhượng bộ địch!

Trong một bài viết của Anthony Lewis với nhan đề “Should Kissinger Quit?” Bài viết đó một cách gián tiếp ám chỉ chính sách của Hoa Kỳ do Kissinger thao túng đã trở nên sai lầm không sửa đổ được như trong trường hợp Việt Nam.

Đọc bài viết này, người viết cảm thấy hả dạ một chút. Tên Kissinger được coi như kẻ phản bội Việt Nam số 1. Vì y mà Việt Nam nên nỗi như thế này!

Viet Cong Flag Flies over Ho Chi Minh City

Những cố gắng cuối cùng để thoát khỏi Sài Gòn. Nguồn: Hugh van Es/REUTERS

Những cố gắng cuối cùng để thoát khỏi Sài Gòn. Nguồn: Hugh van Es/REUTERS

Theo lời phóng viên Leon Daniel, UPI, có mặt tại chỗ tại Sài Gòn khi những người cộng sản đầu tiên vào thành phố trên những chiếc xe tăng do Nga chế tạo. Họ trước tiên đến đường Tự Do, nơi mà trước đây là nổi tiếng ăn chơi của người Mỹ với hàng loạt các quán bar, nay vắng ngắt, cửa đóng im ỉm. Sau đó họ tiến vế phía Dinh Độc Lập, nơi mà ông Dương Văn Minh cùng với nhân viên chính phủ đang kiên nhẫn đứng đợi họ. Những người lính Việt Cộng xem ra kỷ luật trong khi chiến thắng cũng như khi chiến trận.

Phần đông người dân Sài Gòn mở hé cửa nhìn ngắm những chiếc xe tăng chạy qua một cách im lặng. Chỉ một vài người vỗ tay, hoan hô. Nhưng phần đông chỉ đứng nhìn và trông đợi một tương lai không mấy sáng sủa gì về những người chủ mới tới.

Chỉ còn vài người Hoa Kỳ còn sót lại, chắc là ký giả Mỹ. Phần ông đại sứ Martin đã rời tòa đại sứ trên một chiếc trực thăng sớm hôm nay.

Ông có thể được coi như người Mỹ cuối cùng rời khỏi Việt Nam

Trên tờ Le Devoir ở Montreal, “Tous les américains ont quitté”.

Tờ Le Devoir, hiện nay vẫn còn xuất bản mỗi ngày, đã chạy tít “La Chute de Sai Gon est Imminente”.

Theo tin AFP, 81 trực thăng của Mỹ đã vận chuyển được 6400 người ra các Hàng không Mẫu hạm và tầu chở trực thăng của Mỹ. Cuộc vận chuyển khổng lồ này chỉ kéo dài trong thời gian 13 tiếng đồng hồ và chấm dứt 25 năm người Mỹ can thiệp vào Việt Nam. Nhiều tiếng súng bắn lên các trực thăng này khi họ bay qua những đám quân nhân uất hận vì bị kẹt ở lại.

Đại sứ Graham Martin đã rời tòa đại sứ tại Sài Gòn vào khoảng nửa đêm với những chiếc trực thăng chót.

The Ottawa Journal. Wednesday, April 30, page 21: No Viet Flowers as Marines leave

Nhà báo Peter Arnett, người từng nhận được giải thưởng Pullitzer Prize, ông còn ở lại Sài Gòn khi những người lính Thủy quân lục chiến cuối cùng rời Việt Nam. Ông còn nhớ lại, cách đây 10 năm, ông là những người lính trong đơn vị Thủy quân lục chiến lần đầu tiên tại bãi biển Đà Nẵng. Ở nơi đây, ông được đón tiếp bằng những vòng hoa do các thiếu nữ xinh đẹp ở Đà Nẵng choàng vào cổ.

Một thập niên đã đi qua.

Và hôm thứ ba này, tôi được chứng kiến những thủy quân lục chiến lên máy bay. Họ trông cũng vẫn vậy, trông vẫn vóc dáng khỏe mạnh, trẻ đẹp. Cũng vẫn những bộ quân phục là ủi thẳng thướt như lần đấn đây.

Nhưng thái độ của người Việt Nam thì có khác.

Sau đó đã có khoảng 20 chục ngàn sĩ quan Việt Nam được gửi sang Mỹ để được huấn luyện đánh giặc theo kiểu Mỹ.

Một lối đánh giặc chủ yếu dựa vào bom và trọng pháo và sẽ chỉ hữ hiệu bao lâu mà vẫn có đủ máy bay, bom đạn trọng pháo.

Binh đội VNCH đã học được thói quen đánh giặc (luxury of the US way). Không có những thứ ấy, họ trở thành bất khiển dụng.

Để có thể thắng trận và chiến thắng cộng sản ở Việt Nam, phải có một cách đánh trận theo kiều Việt Nam.

Phải chăng đây chỉ là những lời khuyên, hay nhắn nhủ quá muộn màng!

Và may mắn ra, chính quyền đệ nhất cộng hòa nghĩ ngay tới chuyện đấu thầu cho khai thác dầu hỏa ngay tứ năm 1955-1956 thì đến 1973 có thể ngoài khơi Vũng Tàu đã có dầu hỏa phun lên. Lúc ấy ta có cần chi đến tiền của Mỹ và ta sẽ đánh trận theo kiểu Mỹ.

Rất tiếc là mọi sự ở đời đã không xảy ra như vậy!

30-4 -1975 | Cheers, fears, suicide in Saigon

Saigon (AP) Một sô chừng một chục chiếc xe tăng, xe kéo theo pháo cũng như xe tải làm tại Trung Quốc ngụy trang các lá cây đang chạy trên đại lộ Thống Nhất để tiến vào Dinh Tổng thống vào lúc buổi chiều nay.

Một số người miền Nam vỗ tay khi đàn xe đi qua vẫy cờ màu xanh và đỏ của họ với một ngôi sao vàng ở giữa rồi họ dừng xe ngay giữa đại lộ rộng thênh thang.

Trong khi đó, trước tiền đình Quốc Hội, một viên trung tá cảnh sát bước đến sát một bức tượng trên đài kỷ niệm, ông dơ tay chào nghiêm và tự nổ súng vào đầu.

Ông chết sau ít lâu khi được chở vào nhà thương.

Người ta cũng nghe thấy tiếng súng nổ ở gần tòa nhà quốc hội. Một người lính Bắc Việt đứng canh gác trước tiền đình tòa nhà trong bộ quân phục mầu Olive với đôi dép cao su đen.

Họ bắn qua lại bằng vài phát súng khi có những cánh tay dơ ra ở một chỗ nào đó gần đấy. Một vài người đi xe gắn máy chạy xe qua đó với vẻ sợ hãi xem ai đang bắn. Một lúc sau thì mọi chuyện trở lại yên tĩnh.

Trong khi Tổng thống Dương Văn Minh còn đang đọc diễn văn đầu hàng trên đài truyền hình và cộng quân đang tiến vào thành phố, người dân miền Nam cả binh sĩ cũng như thường dân còn chen chúc nhau trên mấy chiếc tầu chạy ven biển còn neo dọc theo bờ sông Sài Gòn. Giờ phút chót, họ vẫn hy vọng họ có thể đi thoát.

Nhưng họ đã phải rời tầu khi thấy một đoàn xe díp chở bộ đội dọc theo bờ sông rồi một phản ứng rất đột ngột, họ vẫy cờ cộng sản và hoan hô.

Mộ số dân chúng đứng trước cửa nhà và quan sát đám việt cộng và lính Bắc Việt đi qua. Lúc đầu, họ rụt rè không có phản ứng gì..

Sau đó thì có người bắt đẩu hoan hô khi thấy có nhiều đám bộ đội khác tiến vào thành phố.

Kỳ Nhân, một nhiếp ảnh viên người Việt từng làm việc cho hãng The Associated Press trong ba năm đi cùng với một người Việt cộng vốn là bạn và hai lính cộng sản từ miền Bắc vào nói với phóng viên hãng thông tấn AP rằng,

George Esper, Văn phòng trưởng hãng thông tấn AP, đã tiếp họ nước Coca-Cola và một ít bánh ngọt còn lại.

Một trung sĩ Việt cộng tên là Binh Huan Lam, 25 tuổi, anh nói anh dến đây từ Hà Nội và đã đi lính được 10 năm. Tôi đã không cưới vợ bởi vì không cần thiết trong thời chiến tranh.

Nhiều người dân thành phố Sài Gòn đi bộ hoặc đi xe đạp trong thành phố. Lính miền Bắc tỏ ra tò mò khi quan sát sinh hoạt thành phố còn người dân cũng tò mò không ít nhìn ngắm cách ăn mặc của bộ đội miền Bắc.

Nhưng đã có rất nhiều người khác thì quyết định ở trong nhà. Một phụ nữ 26 tuổi nói: Họ xem ra tử tế, nhưng vẫn phải chờ xem.

Nhận xét được coi là khuôn vàng thước ngọc. Phải chờ xem

Một thương gia Pháp có được một khung hình quý giá của gia đình Tổng thống Nixon vói chữ viết, To Ambassador and Mrs. Graham Martin with appreciation for their service to the nation. Khung ảnh này chắc do mấy tên thổ phỉ nhặt được trong tòa đại sứ Mỹ, thấy vô dụng nên quẳng đi. Ông người Pháp thì lại nhìn khác. Đây là một bức hình với chữ ký tặng thật có ý nghĩa.

Người thương gia Pháp nói, “Tôi quen biết ông đại sứ tôi sẽ tìm trả lại cho ông bức hình này.”

Trước tòa đại sứ Mỹ phóng viên Peter Arnett nhìn tòa nhà 6 tầng và thấy rằng tòa nhà tuy rộng, nhưng không thích hợp cho hàng ngàn người dân miền Nam kéo vào xin di tản.

Nay thì nhiều người vào hôi của, họ lấy đi tất cả những gì có thề lấy. Nói chung, mặt dân chúng biểu lộ nhiều lo âu hơn là sung sướng.

Resignation, relief greet end of war của các nước láng giềng

Bài bình luận của phóng viên hãng AP-Reuters:

Nói chung nhiều quốc gia phản ứng về sự đầu hàng của chính quyền Nam –Việt Nam bằng sự chịu đựng và thở dài cho chuyện chẳng đặng đừng.

Thủ tướng Thái Lan nói cơn hấp hối kéo dài của miền Nam đã đến hồi chung cục. Đó là ý kiến của bộ trưởng bộ Ngoại giao. Phần thủ tướng Thái Kikrit Pramoj chính phủ của ông sẵn sàng nhìn nhận chính quyền mới.

Bộ trưởng ngoại giao Phi Luật Tân Carlos Romulo chấp nhận cuộc đầu hàng, nhờ đó nhiều sinh mạng đã được cứu vớt.

Ngoại trưởng Indonesia Adam Malik thì nói chính phủ ông không thấy khó khăn gì chẤp nhận chính quyền mới bất kể họ là ai.

Ông tiên đoán rằng chính phủ Malaysia sẽ mời chính quyền mới ở Việt Nam tham gia Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á vào 13, 15 tại Kual Lampur.

Tại Đài Loan, phát ngôn viên chính phủ cho rằng việc thành lập một chính phủ lưu vong tại Đài Loan của cựu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu là một hy vọng mỏng manh.

Chính phủ Úc Đại Lợi trước đây trong 11 năm đã gửi quân chiến đấu sang Việt Nam và 500 binh sĩ Úc đã chết tại Việt Nam. Úc đại lợi sẵn sàng viện trợ cho cả hai bên, miền Bắc cũng như miền Nam.

Phần Bộ trưởng bộ ngoại giao Kim Dong-jo của chính phủ Đại Hàn cho rằng Bài học cộng sản ở Việt Nam cho thấy các quốc gia phải mạnh và phải tự cứu lấy mình. Ông Kim nói thêm, “Chúng ta có thể nhìn thấy ở Cao Mên cũng như tại Sài Gòn, họ đã không đủ sức mạnh nên cũng không thể thương thuyết, không thể hòa giải mà chỉ có đẩu hàng.”

Chính phủ Do Thái đặt câu hỏi là chính quyền Mỹ học được bài học gì trong những sai lầm ở Việt Nam? Và có thể làm suy yếu Israel?

Chính quyền Nhật qua bộ trưởng Bộ ngoại giao Miyazawa cho rằng chính quyền Sài Gòn quyết định đầu hàng là một quyết định khôn ngoan. Và chính phủ đang nghĩ tới nhìn nhận chính quyền mới.

Saigon devient Ho Chi Minh. Le transfert se fait dans l’enthousiasme

Lâu lắm mới có một bản tin bằng tiếng Pháp. Mấy anh Tây viết thì cứ cho là 3 phần trúng, bảy phần trật. Viết sạo là nghề của các ký giả Pháp. Chúng ta cùng nhau đọc bản tin này do ký giả Pháp viết cho AP, AFP và Reuters nhé.

“Tôi bảo đảm an ninh cho mọi người ở đây. Tôi từng theo Cách Mạng từ 10 năm nay. Công việc của tôi là liên lạc với báo chí thế giới và thông báo lại cho việt cộng tin tức.Tôi bảo đảm an ninh cho mọi người ở đây.”

Hầu như không có một sự chống đối nào khi mà các quân đội cách mạng tiến vào Sài Gòn, theo đó chấm dứt một cách đột ngột sau một thế kỷ có mặt của người Âu Châu tại Việt Nam.

Giữa những tiếng hoan hô và vỗ tay của đám đông, các lực lượng vũ trang đã phân tán đi khắp mọi đường phố ở Sài Gòn và họ kéo cờ chinh phủ lâm thời cách mạng miền Nam ở ngay nóc dinh Độc Lập mà trước đó vài giờ, ông tổng thồng Dương Văn Minh đã đọc thông cáo đầu hàng vô điều kiện của quân đội miền Nam.

Tin tức về sự sụp đổ Sài Gòn, được đổi tên là Hồ Chí Minh đã làm cho hàng ngàn người dân trên các đường phố Hà Nội khóc vì sung sướng. Thành phố này nay trở thành phố ‘La ville la plus heureuse et la plus bruyante du monde’ (thành phố hạnh phúc nhất và náo nhiệt nhất trên thế giới) theo các phóng viên báo chí.

Ở Bắc Kinh, các nhà ngoại giao đã nhảy mùa và hát giữa những tiếng pháo nổ.

Ở Washington, cũng là một điều khuây khỏa mặc dầu có đượm nét cay đắng.

Kết cục là c’est terminé!

Sai gon nay mang một bộ mặt bình thường. Những ngưởi bộ hành lễ phép chào các ông bộ đội vả dơ tay cười bắt tay họ,

Những chiến xa rồi những binh lính trang bị súng ống, lựu đạn vào thành phố. Các chiến xa này được chế tạo tại Liên Xô mà một trong những chiến xa ấy đã cán sụp một cánh cửa sắt của dinh Độc Lập..

Trong thành phố, có cái không khí của ngày lễ hội. Dân chúng xúm quanh các anh bộ đội mới từ trên rửng trở về để hỏi thăm với sự tò mò thích thú. Amen

Tin từ Wagshington, Georges Deschodt, “Hoa Kỳ ngăn chặn mọi giao thiệp thương mại với Việt Nam và được coi như một nước thù nghịch.”

Hoa Kỳ đã phản ứng ngay tức khắc khi được tin miền Nam bị sụp đổ vào tay cộng sản. Một biện pháp có hiệu lực ngay là bất cứ quốc gia nào rơi vào một chính quyền được coi là thù nghịch với với nước Mỹ, phong tỏa tất cả mọi giao dịch thương mại và tài chánh.

Sẽ không có một chuyến hàng hóa được vận chuyển đến miền Nam, không có chuyễn vốn đến xứ này, căt mọi quỹ mà trước đây VNCH đã ký kết, không có việc nhập cảng bất cứ thứ gì từ xứ này.

Nói chung là phong tỏa và cấm vận, xiết chặt và cô lập hóa Việt Nam với thế giới bên ngoải.

Việc phong tỏa này không ảnh hưởng gì đến kinh tế Hoa Kỳ. Hoa Kỳ hầu như không nhập cảng gì từ Sài Gòn và nếu có xuất cảng thì qua trung gian viện trợ kinh tế mà nay không có lý do gì tồn tại nữa.

Sẽ gây nhiều trở ngại cho những người Việt Nam có tiền ở nhà băng Hoa Kỳ. Các compte nhà băng này đều bị phoa tỏa.

Đặc biệt là Washington cũng như Quốc Hội Hoa Kỳ đã hoàn toàn yên lặng về sự đầu hàng này. Kissinger cũng sẽ làm như vậy và không tuyên bố gì cả.

Thắng trận xong, Bắc Việt Nam hầu như bị cô lập với hầu hết các nước trên thế giới, đặc biệt với Hoa Kỳ. Chỉ trừ vài nước xã hội chủ nghĩa anh em.

Việc Định cư người Việt di tản sang Hoa Kỳ

Phần đông người Việt khi được định cư ở Hoa Kỳ hay các nước Tây Phương thì coi như việc đương nhiên và trong lối phát biểu đượm nét tự hào vượt khuôn khổ. Thử hỏi xem đã có bao nhiêu người Việt di tản được định cư ở Nhật, Đại Hàn, Thái Lan, Singapore, Đài Loan, Mã Lai và Nam Dương? Cuối cùng chỉ có 4 nước sau đây là đón nhận rộng lượng nhất. Đó là Mỹ, Canada, Úc Đại Lợi, và Pháp(**).

Việc quyết định số lượng người Việt được tỵ nạn sang Hoa Kỳ cũng gặp nhiều khó khăn trở ngại.

Để tiếp đón người tỵ nạn sang Mỹ, Florida và Arkansas cần 80.000 nhân viên đủ loại. Chi phí tính vào khoảng 327 triệu đôla. Chi phí này đã bị quốc hội từ chối.

TT Ford tức giận về sự phủ quyết này và tuyên bố, theo Associated Press, “not worthy of a people which has lived by the philosophy symbolized in the Statue of Liberty.”

Theo phát ngôn viên chính phủ, ông Robert Anderson cho hay cho đến thứ Tư này đã có khoảng 80.000 người di tản đến được nước Mỹ. Sẽ còn ít nhất vài chục ngàn nữa. Đã có 40 chiếc tầu chiến của Hoa Kỳ tham dự cuộc di tản người này.

Hiện nay còn 60.000 được tạm thời di trú ở Fort Chaffee, Ark., Eglin air force base, Fla., Camp Pendleton, California.

Những người di tản đầu tiên đã tới Camp Pendleton là 2315 người

Trước khi viết phần này, xin được trích dẫn một đoạn văn được ghi khắc trên Bức tượng Nữ Thần Tự Do ở Nữu Ước:

Give me your tired, your poor,

Your huddled masses yearning to breahte free,

The Wretched refuse of your teeming shore,

Send these, the homeless, tempest-tossed to me…

Emma Lazarus, The New Colossus, inscribed on the Statue of Liberty

Tinh thần của Bức tượng Tự Do thì đã nêu rõ như thế. Nhưng trong dư luận người Mỹ thì đã có sự chia rẽ và bất đồng về việc thu nhận người Việt vào Nước Mỹ.

Thomas Campbell, 24 tuổi, Louisville cho rằng làm thế nào nước Mỹ có thể thu nhận hàng loạt những người Việt Nam tỵ nạn trong khi chính nước Mỹ đang có trở ngại trong vấn đề thất nghiệp? Chúng ta chắc sẽ lại trở thành một thứ melting pot?

Phần John Faltin ở New York thì nói rằng, “It seems we’ve got enough refugees here as it is.”

Glen Owen, Lansing, Mich thì nói, “I’d burn a cross in their front yard if they moved next door to me.”

Bà Rose Gutenkust, New Jersey nói, “Tỉ lệ thất nghiệp ở đây là trên 10% và hầu như đi đến chỗ phá sản. Nếu chính chúng ta không có công việc làm, thì làm thế nào giúp họ được? Người của chúng ta có quyền có công ăn việc làm trước nhất.”

Về phần Quốc Hội Hoa Kỳ, sau khi Tổng thống Ford yêu cầu khẩn cấp giúp đỡ khoảng 150.000 người tỵ nạn Đông Dương đã nhận được sự đồng ý của Hạ Viện Hoa Kỳ. Không có con số rõ ràng về việc chuẩn chi này nhưng Tổng thống Ford cần khoảng 507 triệu đô la.

A cold life in Tent 57 for Vietnamese refugee

Câu chuyện sau đây là của cô Trần Mộng Tú viết từ Camp Pendleton, California do AP tường thuật lại.

Trần Mộng Tú là cô gái với thân hình nhỏ bé, mắt sáng vốn là thư ký cho văn phòng The Associated Press ở Sài Gòn cho đến ngày 22 tháng tư khi cô và bố mẹ được đưa ra khỏi Việt Nam.

Đây là câu chuyện của cô ở Camp Pendleton, lều 57.

“Ban đêm chúng tôi chợt tỉnh dậy, vì trời lạnh quá lạnh không ngủ được. Cái giá lạnh từ những sườn đồi, vì đây không phải là ở thành phố.

Chúng tôi xếp hàng, nói chuyện để chờ hàng nửa giờ để đến lượt lãnh phần ăn trong doanh trại. Có người nói ước gì được ăn ở trong một nhà hàng ở Sài Gòn.

Chúng tôi thường nói về những người thân thuộc còn kẹt lại Sài Gòn, nói về các gia đình. Chúng tôi hỏi thăm người khác về những người họ hàng. Các gia đình Việt Nam thì thường có mối liên hệ gần gũi như thế.

Ở đây tôi sống chung với bố mẹ tôi, chị và chồng con của họ với 5 đứa trẻ, với các chị dâu các ông chồng của họ và 4 đứa nhỏ. Tất cả chui rúc trong 4 căn nhà và một cửa tiệm bán cà phê.

Cô cho biết những người lính Mỹ thì cực kỳ tử tế. Đồ ăn thì OK. Có một ông hạ sĩ người Mỹ còn muốn mời mấy cô về nhà dùng cơm. Họ cũng mang đến cho các cô các đôi bít tất.

Ở nơi đây, đôi lúc cô nhớ nhà, nhưng làm sao về lại Sài Gòn được và cô có thêm vài người bạn mới!

Người tị nạn ở Camp Pendelton, không phải lều 67. Nguồn: DCVOnline tổng hợp.

Người tị nạn ở Camp Pendleton, không ở lều 57. Nguồn: DCVOnline tổng hợp.

Đọc bài của cô, đúng là cung cách tiểu thư con nhà.

WJS | 40 Years After the War, Saigon

Đôi dòng cuối cùng sau khi viết “40 năm nhìn lại những ngày mất Sài Gòn”

Sau khi viết xong bài viết này, vào một đêm tỉnh dậy lúc 2 giờ sáng. Tôi dở ra đọc lại, tự nhiên nước mắt tuôn trào…

Biết bao nhiêu sự kiện diễn ra lần lượt trong đầu óc tôi như một cuốn film quay chậm.

Những tâm trạng buồn, phẫn uất, chán nản như ngày nào sau 30 tháng Tư còn đọng lại.

Trách nhiệm về ai? Dĩ nhiên là người Mỹ từ trong cái Situational Room của Tổng thống Ford và các chính khách Mỹ như tiến sĩ Kissinger, v.v.

Nhưng người Việt Nam, chúng ta cũng chia sẻ cái phần trách nhiệm ấy. Trách nhiệm làm mất miền Nam là tướng lãnh, lãnh đạo cấp cao. Còn nhớ ông Nguyễn Cao Kỳ khi đến Hoa Kỳ vào đêm thứ hai, được hãng thông tấn Associated Press phỏng vấn tại camp Pendleton, California, ông đã tuyên bố một câu xanh rờn khi bước ra khỏi phi cơ:

Tôi không biết phải nói thế nào nữa!

Trong khi đó nhà chức trách Mỹ ngay khi ông còn ở đảo Guam đã lo sợ cho an ninh bẩn thân của ông Kỳ vì ông đã bỏ trốn đi.

Nhưng kể từ đó đến nay, sau 40 năm. Tôi cũng nhận thấy một cách chua chát có một hội chứng sau chiến tranh. Đó là trận chiến ký ức (Memory battlefield) giữa kẻ thua, người thắng.

Năm nay kỷ niệm 40 năm miền Nam bị mất vào tay cộng sản. Cuộc chiến tranh với xác người chết không còn nữa. Di hại của người những người bị chết từ hai phía, những người bị thương tật cho đến nay vẫn chưa có một thống kê đầy đủ và rõ ràng.

Sự hàn gắn những vết thương chiến tranh hầu như không đáng kể gì!

Người chết trên chiến trường và ở các trại tù cải tạo nay vẫn chưa tìm ra dấu tích mồ mả. Chết chưa có chỗ về, thiếu hương khói.

Người bị phế tật, nhất là thương phế binh VNCH hầu như bị bỏ rơi cho số phận của họ. Họ đã chết dần chết mòn mà ngày nay số còn lại chỉ còn là một dúm người như vật phế thải.

Sự bất nhân của kẻ cầm quyền là sự mất ý thức về lòng nhân bản (Nếu cho là người cộng sản có ý thức nhân bản).

Thật vậy, nếu trước đây có hội chứng hậu thuộc địa sau gần 100 năm người Pháp cai trị thì cũng có một hội chứng hậu 1975. Hội chứng ấy là những chấn thương tinh thần mà cả hai bên nhiều khi không chịu nhìn nhận.

Nó được hun đúc biến thành một thứ huyền thoại của kẻ thắng trận đồng thời cũng có một thứ huyền thoại của kẻ thua trận.

Đó là một cuộc chiến dai dẳng với ký ức đã bị bôi son, trát phấn làm chất liệu. Càng gần đến ngày 30 tháng Tư trận chiến ký ức nhìn lại càng trở nên sôi động từ trong ra đến ngoài nước.

Đủ các loại bài viết, các loại tài liệu mật, các bài phỏng vấn từ nhiều phía, các nhân chứng còn sống sót từ phía người Mỹ, người cộng sản, cựu tướng lãnh miền Nam, những người làm báo cho cộng sản, những người cầm bút từ hải ngoại, v.v. Tất cả như chờ đợi trong dịp này thôi, để được bày tỏ, nói lên bằng nhiều tâm trạng khác nhau.

Thà rằng nói thật, thà rằng đau xót nhìn nhận trách nhiệm và lỗi lầm. Không. Hầu như đã không ai muốn làm điều đó cả.

Nói chung thì đã có một hiện tượng phổ biến về huyền thoại của kẻ thắng trận và một huyền thoại của kẻ thua trận.

Phía người chiến thắng

Tôi nhớ lại khi De Gaulle đi bộ trên đại lộ Champs-Élysées vào tháng 8-1944 với hàng triệu dân chúng đón tiếpp ông.

Điều đó rõ ràng là một sự thật! Một chiến thắng cảm nhận được trên các khuôn mặt của hàng triệu dân chúng Paris với những màn ôm hôn những chiến sĩ trẻ với những vòng hoa, với những nụ cười rạng rỡ, với nước mắt mắt mừng mừng, tủi tủi.

Đó là ý nghĩa trọn vẹn của chiến thắng của ngày Giải Phóng Paris. Tôi đã nhận ra được thứ nhân cách chững chạc, phong cách của kẻ anh hùng đó nơi một De Gaulle khi vào Paris.

Tôi đã không nhận ra bất cứ điều gì như thế nơi dân chúng miền Nam.

Có một vòng hoa nào không? Một thôi cũng được. Có tiếng hoan hô nào không? Có các thiếu nữ ăn mặc đẹp đẽ tươi cười hớn hở ra ôm các anh chiến sĩ ‘giải phóng’ không? Một cô thôi. Ai tiêu biểu cho cuộc chiến giải phóng đó? Lê Duẩn hay Nguyễn Hữu Thọ?

Và dĩ nhiên cái không khí sung sướng đến hoan lạc của người dân Paris trên đại lộ Champs-E1ysées ngày nào thì không phải là không khí của đường Tự Do của Sài Gòn ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Ngược lại, đó là thứ không khí của sự lo sợ, đau buồn và tủi nhục. Ngay giữa trung tâm thành phố, xác của Trung tá cảnh sát Nguyễn Văn Long còn nằm đó. Ít ngày sau, đại tá tỉnh trưởng tỉnh Chương Thiện bị đem ra trước công chúng xử bắn.

“I will try and be a leader for them.”

Đô thành Sài Gòn – 30 tháng 4 : Cảnh sát Trung tá Nguyễn Văn Long tuẫn tiết trước tượng đài Thủy quân lục chiến (khuôn viên Công trường Lam Sơn. Nguồn: OntheNet

Đô thành Sài Gòn – 30 tháng 4: Cảnh sát Trung tá Nguyễn Văn Long tuẫn tiết trước tượng đài Thủy quân lục chiến (khuôn viên Công trường Lam Sơn. Nguồn: OntheNet

Và nói cho thật chính xác là có một không khí của sự tủi nhục và sự cao ngạo!

Sự thật rõ ràng là như thế!

Chỉ nhìn cái quang cảnh khi những chiếc xe tăng đầu tiên vào Dinh Độc Lập người hiểu chuyện sẽ phải tự hỏi tại sao người dân Sài Gòn thờ ơ đến sợ hãi, nghi ngờ những kẻ chiến thắng? Hàng triệu người đã sợ hãi trốn chạy làm sao có cảnh vui mừng được!

Làm thế nào để chúng ta học được bài học lịch sử này mới là điều quan trọng.

Trên thế giới ngày nay, cuộc chiến tranh thế giới thứ hai đã chấm dứt. Vậy thì cách hành xử, thái độ của những người từng coi nhau như kẻ thù, họ đã có thái độ như thế nào? Có những sự việc thuộc lịch sử của nhà viết sử, có những sự việc của người làm chính trị từ nhiều phía, có những việc thuộc quá khứ mà các thế hệ sau không có trách nhiệm và cũng có những việc thuộc hiện tại mà người ngày hôm nay phải chọn lựa, phải làm. Chọn lựa nào là thích hợp? Người Đức, người Pháp từng là kẻ thù của nhau, nay họ cùng nhau kỷ niệm thì họ đã chọn một thái độ nào?

Khi bức tường Bá Linh sụp đổ thì người Đức thuộc Tây Bá Linh đã hành xử ra sao?

Câu hỏi ấy, tôi đặt ra cho những kẻ tạm gọi là thắng cuộc! Bởi vì họ là kẻ trách nhiệm toàn thể cái hậu quả sau ngày 30 tháng Tư!

Sau 30 tháng Tư, mặc dù có thể có hằng triệu người muốn chạy trốn khỏi cộng sản. Nhưng chỉ có chưa đầy 200.000 có được cái may mắn ấy. Còn lại phải chịu chung số phận của cả miền Nam!

Nếu trước 1975, người dân miền Nam chỉ sợ cộng sản thì sau 1975, người dân miền Nam ngoài nỗi sợ còn thêm thù hận và sự khinh miệt người cộng sản.

Trước chỉ có 200.000 người trốn chạy khỏi cộng sản thì sau 1975, con số ấy tăng lên gần 2 triệu người.

Nhìn những cảnh tượng người dân Syria hôm nay bằng bất cứ giá nào chạy trốn ra khỏi đất nước của họ, chạy sang Thổ Nhĩ Kỳ rồi vượt biển họ đã chết đuối trên biển Địa Trung Hải thì có khác gì các thuyền nhân người Việt vào cuối thập niên 1970?

Phía người thua cuộc

Nhiều người bên phía kẻ thua cuộc, nay là dịp may cuối cùng muốn chứng tỏ một điều gì đó với một quá khứ quay quắt chưa hòa giải được, cũng chưa tìm ra một giải pháp gì.

Người ta cũng cố gắng giữ lại những hoài niệm đẹp oai hùng của cả một thời và cảm thấy bị xúc phạm nếu ai nói sự thật về họ. Nhưng ít ra họ vẫn nhận ra sự hữu ích của mình, hữu ích theo nghĩa họ còn sống, họ có mặt; họ muốn làm nhân chứng của ký ức, của lịch sử theo nghĩa còn có tôi đây, tôi có mặt trong giai đoạn ấy.

Bằng bất cứ giá nào, họ không muốn kẻ thắng trận chà đạp trên lòng tự trọng, trên danh dự của một người lính ngoài mặt trận.

Và hơn thế nữa họ muốn đồng hóa thảm cảnh năm 1975 cũng chính là họ với tư cách là nạn nhân của cộng sản. Thảm cảnh ấy chính là đời họ, số phận khắc nghiệt đã phủ lên cuộc đời họ sau 1975. Họ bị tù đầy, mất nhà, mất cửa, mất vợ, mất con và mặc dù đã sang đây trên dưới 30 chục năm, họ vẫn gọi cái ngày 30 tháng Tư là ngày Quốc Hận. Một cụm từ đóng kín bất di dịch và khó để chấp nhận bất cứ danh xưng nào khác.

Cái quá khứ ấy với nhiều đau thương lẫn tủi nhục làm sao bắt họ quên được?

Về phía người Mỹ, những người trong cuộc, họ thường không có thói quen thù hận người cộng sản nên họ tránh được những thiên khiến. Họ cố gắng dùng cái lăng kính con người nhân bản, nhìn cuộc chiến ấy và chỉ thấy ở đó một thảm kịch con người mà họ đã góp phần. Họ nhìn nhận cái miền Nam sau 21 năm dưới con mắt chia sẻ và hiểu biết hơn là lúc họ còn đang tác nghiệp ở đây trước năm 1975.

Tiêu biểu nơi người Mỹ là họ chia xẻ số phận người miền Nam của họ và cảm thấy như một kẻ bội phản. Sau dây là lời trần tình của Frank Sepp, một nhân viên cao cấp CIA được trích lại trong sách của ông.

Chúng ta tự hỏi, có bao giờ một cách chính thức, người cộng sản miền Bắc nhìn nhận những việc họ đã làm tan hoang miền Nam không? Không, chưa bao giờ. Chẳng những thế, họ còn làm ngược lại.

Kể từ sau 30 tháng Tư cuộc sống của con người miền Nam không còn như trước nữa. Họ mất tất cả những cái họ có. Người cộng sản gọi ngày này là Ngày Giải Phóng, Người Quốc Gia gọi nó là Ngày Quốc Hận. Giữa hai cụm từ này là tội ác chống lại con người (crimes contre l’humanité) nhân danh hai chữ Giải Phóng.

Tôi đã đọc bài báo: “Không có ngược đãi sau 30 tháng tư”, trao đổi với BBC ngày 18 tháng Tư 2015 của ông phó giáo sư Vũ Quang Hiền, từ Đại học quốc gia Hà Nội. Ông dám nói như thế này:

Ông nói tiếp:

Đang cầm ly cà phê trên tay, nghe những lời tuyên bố trên của tên Phó Giáo sư, tôi chỉ muốn cầm ly cà phê hắt vào mặt tên Vũ Quang Hiền này.

Các bài viết mang tính huyênh hoang, chạy tội, dối trá, tuyên truyền bịp bợm đến ngớ ngẩn không thiếu. Họ càng nói càng mất thế giá. Họ càng tìm cách trình diễn, càng trở nên lố bịch!

Hà Nội nhân dịp này đang nỗ lực tổ chức hội thảo, rồi tiệc tùng ăn mừng chiến thắng, rồi cho dân nghỉ lễ, rồi có pháo bông để dân nghèo cũng có cơ hội nhìn pháo bông mà quên đi cái thân phận họ. Riêng tại thành phố Hồ Chí Minh sẽ có duyệt binh có cả 6000 binh lính tham dự để diễn lại cái cảnh xâm chiếm miền Nam năm 1975! Chắc là cũng tốn kém bạc tỉ?

40 năm nhìn lại, chỉ mong rằng sau này, người ta biết coi là một bài học đau thương của cả một dân tộc.

“But that last day, there were no euphemisme for what we’d done. We’d betrayed the Vietnamese who’d depended on us, and those of us who’d worked most closely with them -the young CIA and State Department officers from the trenches- now had blood on our hands, for it was we who in our daily contacts had convinced them to trust us’.(17)

“Sau chiến tranh chấm dứt ngày 30 tháng Tư, 1975, ở Việt Nam không có sự ngược đãi đối với mọi người, trong đó với các lực lượng cựu quân, cán chính của chính quyền Sài Gòn.”

“Tức là tuyên truyền vu cáo về miền Bắc xâm lược miền Nam và dẫn đến sự tàn sát đẫm máu thì rõ ràng là điều đó không có ở miền Nam.”

Tiếc thương. Ảnh: Nguyễn Ngọc Hạnh.

Tiếc thương. Ảnh: Nguyễn Ngọc Hạnh.

© 2015 DCVOnline

Nếu đăng lại, xin đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net”

(17) Frank Snepp, Irreparable Harm, trang XVII

DCVOnline | (*) Quốc hội không có thẩm quyền bầu Tổng thống theo Điều 39, Quyền hạn của Quốc hội, trong Hiến pháp 1967 của Việt Nam Cộng Hòa. Căn cứ vào Điều 56 của Hiến pháp, nhiệm vụ của một Tổng thống chỉ có thể bị chấm dứt trước khi mãn nhiệm trong những trường hợp sau đây: chết, từ chức, mang trọng tội/truất phế, bị bệnh nặng kéo dài. Tất cả những trường hợp vừa kể không thể áp dụng với Tổng Thống Trần Văn Hương. Luận tội/truất phế Tổng thống là một trong những thẩm quyền của Tòa án Đặc biệt theo quyết định dựa trên hai Điều 85 và 87. Như vậy, hành động của Quốc hội trong việc bầu chọn Tướng Dương Văn Minh thay thế Tổng Thống Trần Văn Hương vào ngày 26 tháng tư năm 1975 có thể được coi là không hợp hiến. [Tham khảo: Văn bản của Hiến pháp mới, Việt Nam Perspectives. Vol. 3, số 1 (Tháng Tám, 1967), trang 24-40. Một phiên bản tiếng Việt của “Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa năm 1967” có thể được tìm thấy ở đây: http://snipurl.com/24o4sn5]

(**) Theo statistiques de France-terre d’asile, từ tháng 5 năm 1975 đến ngày 31 tháng năm 1990, Pháp đã nhận tổng cộng 42.694 người tị nạn Việt Nam, 1/3 của người tị nạn Đông Dương đến Pháp (126.100) trong giai đoạn này. (Nguồn: Lam Thanh Liem et Jean Maïs, La Diaspora Vietnamienne En France Un Cas Particulier: La Region Parisienne, Bulletin EDA n° 207, 16/10/1995.) Trong cùng thời gian đó có 543.000 người Việt tị nạn tại Mỹ (Hataipreuk Rkasnuam and Jeanne Batalova, Vietnamese Immigrants in the United States, August 25, 2014.) Từ khoảng 3000 người trước 1975, đến 1991 dân số người gốc Việt tại canada tăng lên 91.000 sau những đợt di cư của người tị nạn (Louis-Jacques Dorais, “From refugees to transmigrants: the Vietnamese in Canada”). Trước năm 1975 chỉ có khoảng 700 người gốc Việt Nam tại Úc, con số này tăng lên 124.800 người vào năm 1991 (ABC.net.au, Timeline: Vietnamese immigration to Australia.)