Nhìn Lại Sử Việt 4

Di sản văn học miền Nam (p1)

Posted on July 16, 2016 by editor1 Comment

Nguyễn Văn Lục

buigiang

Dù không dặn dò thì chỉ cầm cuốn sách nặng chịch cũng thấy được tâm huyết đổ vào đấy. Tôi vốn không ưa thich thơ, nhưng nhiều bài thơ đọc cũng muốn rơi vài giọt nước mắt.

Trần Hoài Thư.

Trong nỗ lực phổ biến hoá di sản văn học miền Nam, qua trung gian nhà văn Trần Hoài Thư, người viết có ý muốn giới thiệu một phần các tác phẩm của gần 200 nhà văn miền Nam thuộc đủ mọi khuynh hướng, đủ các thế hệ, già cũng như trẻ và đặc biệt các nhà văn mặc áo lính trước năm 1975.

Việc thu thập tài liệu trên là một thách đố cho bất cứ ai bởi vì chính sách truy diệt Văn hóa Mỹ-Ngụy hơn 40 năm trước.

Trong một bài viết: Sống lại dĩ vãng, Phạm Văn Nhàn có trích dẫn một câu chuyện khá cảm động, nhà thơ Viêm Tịnh ở Huế tình cờ tìm thấy nửa trang báo cũ của Khởi Hành, trong đó có đăng 3 bài thơ của ông, ông viết:

“Mũ nhẹ nên coi đời cũng nhẹ

Chiến tranh, thì cũng tựa phù vân.”

1 trang Khởi Hành. Nguồn: OntheNet

1 trang Khởi Hành. Nguồn: OntheNet

“Sau 1975, mình vào Saigon đi kiếm tiền ở khu nhà ga xe lửa cũ trên đường Lê Lợi, mình vào nhà vệ sinh công cộng ở bên hông nhà ga và thật mủi lòng thấy một nửa trang báo Khởi Hành rách bẩn có thơ của mình.”

[Trích Thư quán Bản Thảo, chủ đề “Khởi Hành và tôi”, số 12, tháng 12, 2014) Thư của nhà thơ Viêm Tịnh tư Huế.]

Thêm một bằng chứng hiển nhiên và hùng hồn là sau khi cho đăng lại các số Tập san Đại Học của Viện Đại học Huế, đã được số hóa, thì bất ngờ DCVOnline.net nhận được thư của ông Dương Đức Hưng, BTV chính của Tạp chí Khoa học Đại Học Huế, liên lạc và ngỏ ý muốn có toàn bộ Tâp san Đại Học Huế đã số hoá để dùng làm tài liệu trong dịp 60 năm thành lập Viện Đại Học Huế (1957-2017).

DCVOnline không thoả mãn yêu cầu của ông Dương Đức Hưng, và vẫn tiếp tục phổ biến Tập san Đại Học hàng tuần cho bạn đọc toàn cầu.

Xin tài liệu của Tạp chí Đại Học Huế cần được ghi nhận là việc có nhiều ý nghĩa. Trong đó cũng có một điểu rất là vô lý và trái khoáy!

Đại Học Huế đúng ra phải lưu trữ ít lắm cũng vài ấn bản của toàn bộ tập san. Không lẽ hiện nay thư viện của Đại học Huế không có được một ấn bản nào của Tập san Đại Học? Và có lẽ cả cái thành phố Huế cũng không còn một ai lưu trữ được một số báo nào cũng nên?

Trung tâm học liệu Đại học Huế Khánh thành vào tháng 6/2004, diện tích sử dụng trung tâm học liệu ĐH Huế là 6.100m2. Với không gian rộng rãi, thoáng mát, cơ sở vật chất hiện đại, 500 máy tính luôn sẵn sàng phục vụ, thư viện là nơi lý tưởng để các bạn sinh viên học tập. Tổng số sách hiện có tại đây là 14.449 tên/50.769 bản; trong đó 3286 tên/3610 bản sách tiếng nước ngoài; 568 tên báo, tạp chí (85 tên báo, tạp chí nước ngoài). Nguồn: thuvien.uit.edu.vn

Trung tâm học liệu Đại học Huế

Khánh thành vào tháng 6/2004, diện tích trung tâm học liệu ĐH Huế là 6.100m2. Cơ sở vật chất hiện đại, 500 máy tính. Tổng số sách hiện có tại đây là 14.449 tên/50.769 bản; trong đó 3286 tên/3610 bản sách tiếng nước ngoài; 568 tên báo, tạp chí (85 tên báo, tạp chí nước ngoài). Nguồn: thuvien.uit.edu.vn

Bao lớp sóng phế hưng của những biến động chính trị dồn dập xảy ra cho Huế! Một thành phố có tiếng là đất văn vật, với thành quách, đền đài cung điện mà một phần hồn của Huế xem ra cũng không giữ được? Huế đã chết, quá khứ của nó bị chôn vùi mà cái hiển hiện chỉ là cái bề ngoài không che đậy được. Huế bị vùi dập đến nỗi khi cần tài liệu của Huế người ta phải cầu cứu đến một tờ báo điện tử ở hải ngoại cung cấp cho Đại Học Huế?

Đó có phải là hệ quả của nền văn hoá đốt cháy, đập bỏ của những người “thắng cuộc”?

Mối liên hệ chóng vánh của tôi với ông Dương Đức Hưng, qua thư do DCVOnline chuyển, trở thành nguội lạnh khi tôi nhắc khéo ông là nếu có xử dụng tài liệu của Tạp chí Đại Học thì nên cố gắng trung thực được chừng nào hay chừng ấy. Ông Hưng – một tiến sĩ về chủ nghĩa Mac-Lênin – đâm ra mất bình tĩnh lên giọng cán bộ dạy dỗ tôi và chấm dứt liên lạc.

Điều đó càng đem lại cho tôi một niềm tin sắc bén rằng, dầu các nhà văn và tác phẩm của họ đã bị xóa sổ sau 30 tháng 4, 1975, việc giới thiệu lại mảng văn học miền Nam là một điều nên và cần làm.

Nếu không làm bây giờ thì sẽ quá trễ.

Nhiều nỗ lực ở hải ngoại của một số nhà xuất bản sau 1975 như Xuân Thu, Đại Nam cũng là một điều khích lệ mặc dầu những nỗ lực đó để phục vụ mục đích thương mại. Tuy nhiên, sinh hoạt xuất bản này bị khựng lại ví do số lượng người đọc được tiếng Việt mỗi ngày một suy giảm,

Trong nước, hiện có một xu hướng tìm về do những người hiểu chuyện như nhà văn Nguyên Ngọc, nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên và của một số nhà xuất bản đã làm. Họ cho in lại một số tác phẩm của nhà văn Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Mộng Giác, các tác phẩm sử học của Tạ Chí Đại Trường, v.v.

Tuy nhiên, đó cũng vẫn chỉ là công việc muối bỏ biển.

Ngoài nước, Phạm Thị Hoài là người đã nghĩ đến việc này và hàng loạt tài liệu về văn học miền Nam đã được in, trích đăng lại trên Talawas. Rất tiếc, công trình đó bị bỏ dở. Vì một lý do nào đó, Phạm Thị Hoài đã phải đóng cửa Diễn Đàn Talawas để lại sự tiếc nuối của nhiều người, trong đó có tôi.

Hiện nay có một nỗ lực ngoài sức người của nhà văn Trần Hoài Thư. Ông được nhóm bạn bè – như Hồ Thanh Tâm, Đặng Kim Côn, Nguyễn Hoàng Quân, Phạm Văn Nhàn, Nguyên Minh, Lại Quảng Nam, Thành Tôn, Thu Hương (Seattle), Nguyễn Thị Hải Hà, anh chị Lệ Uyên, cô T.H, Ngô Kim – tiếp tay.

Thư Quán Bản Tháo số 61. Nguồn: www.banvannghe.com

Thư Quán Bản Tháo số 61. Nguồn: www.banvannghe.com

Kỷ niệm đầu tiên giữa tôi và ông Trần Hoài Thư là một ngày tháng nọ, đã lâu, một học trò ở Philadelphia gửi cho tôi một tuyển tập thơ đồ sộ, Thơ miền Nam thời chiến (sách in năm 2006, dày 818 trang với 263 nhà thơ với lời dặn dò, Kính tặng thầy để tham khảo để thấy công lao của anh Thư.

Dù không dặn dò thì chỉ cầm cuốn sách nặng chịch cũng thấy được tâm huyết đổ vào đấy. Tôi vốn không ưa thich thơ, nhưng nhiều bài thơ đọc cũng muốn rơi vài giọt nước mắt.

(Hồ Minh Dũng, “Đêm Giáng sinh”)

Và một Nguyễn Bắc Sơn quen thuộc trong bài Căn bệnh thời chiến:

“Dù chỉ một ngày ngưng bắn đó con

cũng đem chiếc áo lành ra mặc

cũng ăn một bữa cơm cho no

cũng ngủ một giấc trên giường, trên chiếu

khổ đau lúc này mẹ gói trong mơ.”

“Mày gửi một chân ngoài trận mạc

Mang về cho mẹ một bàn chân

Mẹ già khóc đến mù hai mắt

Đời tàn theo lứa tuổi thanh xuân.”

Chưa bao giờ tôi thấy một tập thơ in một cách ‘rất tiểu công nghệ’, phải xỏ chỉ, xuyên kim tùng mũi một như thế; nhìn sách là biết công khó của nhà/người xuất bản.

Sau này được biết ông gom tiền mua một vài máy in, máy cắt, v.v. đặt ở ngay tầng hầm dưới nhà. Ông mày mò nhờ bạn bè trong nước kiếm tài liệu, cùng với chị Yến, vợ ông, tìm thêm tài liệu tại thư viện đại học Cornell.

Tìm được tài liệu, về nhà lóc cóc đánh máy, in ấn một mình.

Vậy mà ông đã in được bốn tuyển tập, dày hơn 2000 trang với gần 200 nhà văn đủ loại. Gửi cho bạn bè bằng bưu điện đi khắp nơi thì tiền bưu điện đắt gấp đôi tiền giấy mực. Ông vẫn tiếp tục gửi, tiếp tục làm việc như người lên đồng. Chưa hề thấy lần nào ông ngửa tay xin tiền bạn bè. Ai gởi thì ông nhận. Chỉ thế thôi.

Và đây, xin ghi lại một cảm tưởng của một người đã có chuyện được in lại:

(Trích Âu Thị Phục An, tác giả Thăm viếng, tập I).

Ở đây, phải được phép để nói về hoàn cảnh của ông, mà tôi chợt nghĩ và so sánh đến câu chuyện Con chó vàng của nhà văn Nguyên Hồng thời tiền chiến. Vợ ông, chị Yến đau nặng, mất khả năng tự lập. Mình ông hầu vợ, cơm bưng nước rót, rửa ráy tắm giặt – một tay ông. Còn chút thì giờ rảnh rang thì ông lại chui xuống hầm dưới nhà, loay hoay in ấn.

Và trong những ngày tháng sắp tới, những sưu tầm của ông sẽ được DCVOnline.net phổ biến rộng rãi khắp nơi, nhất là để đến với bạn đọc trong nước.

Phần riêng, tôi mong ông tiếp tục làm việc mà thời gian của ông cũng được đong đếm từng ngày vì đau ốm bệnh tật. Nếu bạn đọc còn thiết tha đến văn học miền Nam, muốn có tác phẩm bằng giấy in, xin liên lạc với ông ở địa chỉ, tranhoaithu@verizon.net

Di sản văn học miền Nam (p2)

Posted on July 17, 2016 by editor1 Comment

Nguyễn Văn Lục

“Sau 34 năm thất lạc, giờ mới nhận lại được đứa con tinh thần tên ‘Thăm viếng’. Thật sự cũng cảm thấy mừng mừng tủi tủi, lại chạnh lòng thương nhớ những đứa con khác mà mình đã chôn vội chôn vàng xuống lòng đất sau 30-4-1975.”

sodo

Chính vì nghĩ như thế mà chúng ta cần nhắc lại một nền văn học đã bị xóa sổ chẳng khác gì một mảnh đất đã bị cào bằng để xây đô thị mới bất kể những di tích cũ, đền đài cũ.

Cuộc di cư và bứng gốc văn học

(Tiếp theo p1)

Đến bến bờ tự do: Đồng bào di cư từ miền Bắc rời tàu USS Bayfield ở cảng Saigon, 1954

Việc của tôi ở đây là phác họa một cách vắn tắt 20 năm văn học miền Nam mà chỉ với 20 năm đó, nó đã hoàn thành một nhiệm vụ văn học mà không gì có thể so sánh được. Khi tôi nói 20 năm thay vì 21 thì không có mục đích nói cho tròn số mà vì muốn nhấn mạnh đến ngày chính thức thành lập nền Đệ nhất Cộng hòa miền Nam Việt Nam.

Chính vì nghĩ như thế mà chúng ta cần nhắc lại một nền văn học đã bị xóa sổ chẳng khác gì một mảnh đất đã bị cào bằng để xây đô thị mới bất kể những di tích cũ, đền đài cũ.

Trong cuộc di cư 1954, yếu tố chính là đi tìm tự do, một yếu tố chính trị, không muốn sống chung với người cộng sản.

Nhưng một kết quả không ai ngờ tới là cuộc di cư ấy còn là một cuộc di cư chữ nghĩa, một dòng chảy văn học từ Bắc vào Nam, hòa nhập vào dòng văn học địa phương.

Sức mạnh văn học của miền Nam so với miền Bắc mạnh một phần vì yếu tố này, đa dạng vì nó, tinh hoa cũng nhờ nó.

Biết bao nhiêu tinh hoa đất Bắc, như một hiện tượng xuất não, tự bứng rễ, đã có mặt ở miền đất hứa miền Nam.

Tuy nhiên, tôi có một khẳng định là những người làm văn học từ miền Bắc vào miền Nam, đã một cách nào đó, trên cuộc hành trình đi tìm tự do đã bỏ rơi, tự nguyện cắt rời, hay một chối từ trong môi trường mới, hai trào lưu văn học mà chính họ có bổn phận là kẻ kế thừa. Đó là dòng văn học thời tiền chiến và dòng văn học của Tự Lực Văn Đoàn từ những năm 1930. Sự phân biệt này thật ra không thể dựa trên thời gian mà dựa trên nhóm. Vì thế, trong Tự Lực Văn Đoàn cũng có một số nhà thơ tiền chiến cộng tác như Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu.

Sự đứt đoạn với tiền chiến khi vào Nam kể như dứt khoát.

Nhiều giới trẻ như sinh viên ít biến đến các nhà văn tiền chiến, vì không có người giới thiệu. Trừ trường hợp Vũ Trọng Phụng, vì ly do thương mại, sách của ông được in lại.

Tự Lực Văn Đoàn may mắn hơn, vì có Nhất Linh, từ Đà Lạt xuống núi cho tái bản các sách vở cuả Tự Lực Văn Đoàn. Cái may mắn thứ hai là Tự Lực Văn Đoàn được đưa vào giảng dạy trong chương trình học của các lớp đệ nhị trung học.

Vì thế, ít ai còn biết đến Nguyên Hồng, mấy người am hiểu Nam Cao, càng xa lạ với Trần Tiêu (em ruột Khái Hưng với tiểu thuyết Con Trâu, Chồng Con). Tờ Tân Văn, số 10, 2008, có cho trích đăng một truyện ngắn của Trần Tiêu, nhan đề Thứ nhì chuột rúc.

Người ta biết lõm bõm về Vũ Trọng Phụng với Số Đỏ, Giông Tố, Làm Đĩ, Cạm bẫy người vì tính cách châm biếm của nó và tính cách thương mại nữa.

Theo Bùi Xuân Bào, hiểu một cách sâu xa hơn, Vũ Trọng Phụng phô bày một sự phá sản của chủ nghĩa cá nhân (La faillite de l’individualisme) châm biếm cay độc như Tắt Đèn của Ngô Tất Tố, Bước Đường Cùng của Nguyễn Công Hoan, Sống Chết Mặc Bay của Phạm Duy Tốn.

Nhưng xem ra trái cựa, miền Nam lại tỏ ra nồng ấm với thi ca của Hàn Mạc Tử, Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư, Huy Cận Thế Lữ, Chế Lan Viên. Một lý do là thơ dễ cảm lòng người và một số bài thơ của các tác giả trên đẫ được phổ nhạc.

Đến dòng văn học Tự Lực Văn Đoàn thì do sự có mặt của Nhất Linh ở miền Nam, giúp vực dậy trong nhất thời của một thời đã qua. Tuy nhiên, dù nó được đưa vào giảng dậy trong chương trình trung học, nó đã mau chóng bị rơi vào quên lãng theo như một nhận xét của Võ Phiến:

Ở một chỗ khác, Võ Phiến nhận xét thêm:

(Trích Văn Học miền Nam, truyện 2, 1243-1244)

Thực tế là ngoài những người như Duy Lam, Nguyễn Thị Vinh, Nhật Tiến, một chút Doãn Quốc Sĩ còn nhắc nhở người đọc đến Tự Lực Văn Đoàn.

Phần lớn các nhà văn ở miền Nam còn lại như nhóm Sáng Tạo, những người viết trên Bách Khoa, Hiện Đại, Văn Học, Thái Độ, Trình Bầy, Hành Trình, Đất Nước, Khởi Hành thì ít có nhà văn nào chịu ảnh hưởng của Tự Lực Văn Đoàn về cách viết cũng như đề tài, mẫu nhân vật truyện, v.v.

“Tuy nhiên, hầu hết những gì viết về ông đều chỉ chú trọng đến cái thành tích văn học tiền chiến của ông mà thôi: Nhất Linh sáng chói là cái ông Nhất Linh của Đoạn Tuyệt, của Tự Lực Văn Đoàn, của Phong Hóa, Ngày Nay… Như thế sau đóm là một thời tàn dư, không mấy quan trọng.”

“Ây vậy mà trong khi lắm người khác khen nhau là là cùng tiến vượt bực tới hàng ngũ tiền phong thì Nhất Linh lại bị chê là là không còn hợp thời, là đã thuộc về hôm qua, họa hoằn mới nghe được tiếng ‘chấp nhận’ độ lượng của giới hôm nay.”

Hình từ trái: Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Nhất Linh, Tú Mỡ và Xuân Diệu. Nguồn: OntheNet

Hình từ trái: Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Nhất Linh, Tú Mỡ và Xuân Diệu. Nguồn: OntheNet

Tự Lực Văn Đoàn tiêu biểu cho một giai đoạn tranh chấp xã hội giữa cũ và mới mới, bằng tiểu thuyết luân đề. Giai đọan xã hội ấy đã qua thì mọi chuyện cũng đã thay đổi. Nó phục vụ cho những nhu cầu cải tiến xã hội là cái nhất thời thì theo đúng quy luật khách quan nó không có lý do tồn tại lâu được

Và văn học vì thế cũng đòi hỏi một sự đổi mới, cho một nhu cầu mới.

Tóm tắt thì Tự Lực Văn Đoàn đã có một thời với hào quang chói lọi như thế trong văn học sử. Thời của Tự Lực Văn Đoàn đã tàn lụi, đã hết.

Riêng tôi nay không thể có cảm hứng để đọc lại Đoạn Tuyệt, Lạnh Lùng, ngay cả Hồn Bướm Mơ Tiên nữa. Cái giá trị để lại là một số hiếm hoi truyện ngắn của Thạch Lam và truyện ngăn viết chung giũa Nhất Linh và Khái Hưng như truyện Anh phải sống. Nhưng ngược lại tôi vẫn cảm thấy gần gũi, xúc động mỗi khi đọc lại Nguyên Hồng trong các truyện ngắn của ông như Hàng cơm đêm, Hai mẹ con, Mợ Du, Hai dòng sữa, Đi, Bố con lão đen, Người mẹ không con, Cái xích cũ, Người con gái.

Truyện làm sao thì cuộc đời ông làm vậy. Bố chết sớm vì lao phổi, mẹ đi làm vú. Phần ông, lang thang đầu đường xó chợ. (Ông viết lại trong Những ngày thơ ấu, Bỉ Vỏ, Sóng gầm, Cơn bệnh đã đến).

Những mảnh đời ấy cũng chính là số mệnh cuộc đời của Nguyên Hồng cũng như Vũ Trọng Phụng vậy.

Nhưng ở Nguyên Hồng, khổ đau giữ nguyên hình hài của nó. Còn ở Vũ Trọng Phụng, nó biến thành những tiếng cười. Theo Bùi Xuân Bào, trong Le roman Vietnamien contemporain, tiếng cười ấy báo động một sự phá sản của chủ nghĩa cá nhân (La Faillite de l’individualisme) tiêu biểu qua những nhân vật Tạ Đình Hách, Xuân Tóc Đỏ.

Có người bảo Peter Zinoman so sánh Vũ Trọng Phụng với George Orwell, hay một Balzac Việt Nam nhưng theo Nguyễn Thị Diêu (“American Historical Review”, 02/01/2015, trang 214) thì trong Vietnamese Colonial Republican: The Political Vision of Vũ Trọng Phụng, Peter Zinoman tin rằng có sự đồng hoá văn học tri thức của Vũ Trọng Phụng với những tác phẩm tiếng Pháp, đặc biệt là của trường phái hiện đại hiện thực như các tác phẩm của Émile Zola, André Gide. Nguồn gốc nghèo khó của ông là một lý do khiến ông đã không thể vào ngồi cùng bàn với giới “tinh hoa” trong xã hội thuộc địa thời đó. Suốt cuộc đời sống ngắn ngủi của Vũ Trọng Phụng. Những nhân tố này tạo thành nét văn chương của Vũ Trọng Phụng: ông viết về thực trạng xã hội từ góc nhìn thực tế và cặn kẽ của những người thấp cổ bé miệng theo kiểu của Émile Zola. (Phóng sự Cạm bẫy người, Kỹ nghệ lấy Tây.)

Zinoman phân tích văn chương Vũ Trong Phụng qua lăng kính chính trị xã hội và coi ông là một “bỉnh bút cảm thức đối với chủ nghĩa tư bản thuộc địa”

Bìa Tạp chí Tao Đàn số đặc biệt tưởng niệm Vũ Trọng Phụng (1939)

Bìa Tạp chí Tao Đàn số đặc biệt tưởng niệm Vũ Trọng Phụng (1939)

Tác phẩm giá trị là ở mức độ thời gian dài hay ngắn của nó. Không phải ngẫu nhiên mà học giả Maurice M. Huard và Nguyễn Trần Huân đã giới thiệu Vũ Trọng Phụng trong Introduction à la littérature Vietnamienne (G-P Maisonneuve et Larose, Paris, 1969), Bùi Xuân Bào, trong luận án tiến sĩ Quốc gia tại Paris, Le roman Vietnamien contemporain dành riêng viết về VTP, từ trang 199-216; sách do Tủ sach Nhân Văn Xã Hôi in. Thêm vào đó, tác phẩm Số Đỏ đã được Peter Zinoman và Nguyễn Nguyệt Cầm dịch ra tiếng Anh dưới nhan đề Dumb Luck. Ông cũng còn viết một cuốn chuyên khảo về Vũ Trọng Phụng nhan đề Vietnamese Colonial Republican: The Political Vision of Vũ Trọng Phụng., University of California Press, November 2013

Điều đó càng cho thấy sự đánh phá tập thể của Thế Lữ, Nhất Linh, Hoàng Đạo, Tú Mỡ của nhóm TLVĐ trên tờ Phong Hóa và Ngày Nay là quá bất công và mang tính bè phái.

Vậy mà trong tập Kỷ Yếu Triển lãm và Hội thảo về báo Phong Hóa Ngày Nay và Tự Lực Văn Đoàn, in ấn rất trang nhã, đẹp, tốn tiền, tờ Người Việt và người phụ trách là Phạm Phú Minh đã thiếu khách quan, không hề nhắc tới việc TLVĐ và tờ Phong Hóa và Ngày Nay đã diễu cợt, đánh phá tất cả các nhà văn ngoài nhóm, các tờ báo khác, không trừ một tờ nào.

Xin trích dẫn một lời phê bình của Nguyễn Hưng Quốc, người đọc cũng phải bắt ngượng:

(Trích trong phần đề tựa bìa lưng của tập Kỷ Yếu Triển lãm và Hội thảo về báo Phong Hóa Ngày Nay và Tự Lực Văn Đoàn).

Đây quả thật xứng đáng là một tác phẩm trong việc “bôi nhọ vẽ hề”, Chữ mà Vũ Trong Phụng thường dùng

Đến Nguyễn Tuân là một nhà văn đứng riêng ra một cõi, không giống bất cư một ai, một đấng tài hoa, nếu bỏ đi những gì ông viết thời kháng chiến như Sông Đà chẳng hạn.

Tôi đã đọc lại Vang Bóng một thời, và đọc lại Chữ người tủ tù Trong đó có cảnh người tử tù, ông Huấn Cao, cho chữ.

Nhưng chỉ riêng Nam Cao thì bút lực của ông đã không thể có mấy ai sánh cùng. Vì đó là sự tuyệt vời của văn học nghệ thuật.

Một dáng đứng vượt thời gian và những biến thiên của những thăng trầm cũng như biến động xã hội. Mà lúc nào nó cũng như thể những đòi hỏi cấp bách và muôn thủa của con người. Các truyện dài của ông có, Truyện người hàng xóm, Sống Mòn. Nhưng đắt giá nhất vẫn là những truyện ngắn của ông như Cái chết của con mực, Lão Hạc, Đôi Mắt.

Và tuyệt bút là truyện Chí Phèo. Chí Phèo thể hiện nhân cách của nhà văn. Chí Phèo làm nổi bật tính cách bi kịch của thân phận Người. Nó là một lời tố cáo vì Con người đã bị từ chối không được làm người.

“Tự Lực Văn Đoàn không phải là nhóm lớn nhất, hay quan trọng nhất trong ‘nền văn học hiện đại’ hay trong giai đoạn 1930-1945 mà trong suốt cả lịch sử kéo dài hơn một ngàn năm của văn học Việt Nam nói chung.”

Nguồn: TTXVN

Nguồn: TTXVN

Chính ở điểm này cho thấy sự khác biệt sâu xa giữa tính nhất thời của Nhất Linh và tính trường cửu của Nam Cao. Nó cũng là dấu chỉ thế nào là nhà văn lớn hay không lớn. Nhà văn lớn khi đề tài lớn. Nhà văn nhỏ khi đề tài nhỏ. Tỉ dụ trong truyện Ngư ông và biển cả, đề tài là sự cao cả, sự bền chí của con người trước thiên nhiên. Truyện Chí Phèo lớn thay vì nói về sự nghèo đói, nó đề cập đến số phận con người bị từ chối không được làm người.

Khi đọc chuyện Chí Phèo của Nam Cao, nó bắt tôi liên tưởng đến cuốn phim La Strada (1954) của đạo diễn Fellini. Làm thế nào từ những thời điểm khác nhau, xã hội khác nhau, nền văn minh khác nhau, họ lại có thể có một điểm đồng quy tuyệt vời như vậy?

Một mặt khác, nó cũng nói lên được cái đẹp của sự khốn nạn, của sự khốn cùng và niềm hy vọng vươn lên của con người như Chí Phèo muốn làm người tử tế.

Ngồi kiểm nghiệm về sinh hoạt văn học Việt Nam, tôi nghĩ khác, thời kỳ tiền chiến không là giai đoạn rực rỡ khó sánh bì của văn học.

Gọi đó là Thời Trục (periode axiale) của nền văn học trước nó và sau nó có lẽ đúng hơn. Nó lên đến đỉnh cao của một chu kỳ văn học sáng chói khó phai mờ. Một bên là Nguyễn Tuân, bên kia là Nam Cao như những ngọn hải đăng văn học. Chung quanh là những vệ tinh Nguyên Hồng, Vũ Trọng Phụng, Tô Hoài, Lưu Trọng Lư, Huy Cận. Văn Cao.

Và còn biết bao nhà văn khác như Nguyễn Vỹ, Bùi Hiển, Lê Văn Trương, Lan Khai, Phạm Huy Thông, Nguyễn Nhược Pháp, Nguyễn Bính!

Thiết nghĩ đã đến lúc giới phê bình văn học Việt Nam phải lột bỏ tinh thần cục bộ, ‘gia đình trị văn học’, nhất là áp đặt lý thuyết giáo điều đâm chém, cắt xén, hạ thấp các giá trị văn học như trong trường hợp Nam Cao và Vũ Trọng Phụng.

Chỗ đứng của Nguyễn Tuân đã vững vàng. Chỗ đứng của Nam Cao còn chênh vênh lắm. Trả về cho Nam Cao chỗ đứng xưng đáng của ông là một sự công bằng và phải đạo.

Bên lề văn học miền Nam ở giai đoạn đầu, có một số nhà văn của chế độ XHCN lại đi vào miền Nam bằng cửa ngõ chính trị và được nổi tiếng, quý mến và trân trọng như Trần Dần, Lê Đạt, Phùng Cung, Nguyễn Hữu Đang, Hoàng Cầm, Thụy An. Họ càng bị hút máu rút gân thì miền Nam lại càng rộng tay đón họ. Chỉ trừ một vài người tự thân là nhân tài như Trần Đức Thảo, Văn Cao.

Trên đây là mấy dòng ghi nhận, đánh giá sít sao bối cảnh hình thành văn học miền Nam.

Di sản văn học miền Nam (p3)

Posted on July 18, 2016 by editor1 Comment

Nguyễn Văn Lục

da

Nếu lấy chính trị làm cột mốc cho văn học thì có thẻ chia văn học miền Nam làm hai thời kỳ: thời kỳ 1954-1963 và thời kỳ 1964-1975. Trong hai giai đoạn này, biến cố chính trị liên quan đến đất nước thì cũng liên quan đến biến cố văn học.

Chính trị và văn học

(Tiếp theo p2)

Nếu lấy chính trị làm cột mốc cho văn học thì có thẻ chia văn học miền Nam làm hai thời kỳ: thời kỳ 1954-1963 và thời kỳ 1964-1975. Trong hai giai đoạn này, biến cố chính trị liên quan đến đất nước thì cũng liên quan đến biến cố văn học.

Thời kỳ 1954 là giai đoạn nở rộ của nhiều dòng chảy văn học. Từ Bắc vào có tới hằng trăm văn Nghệ sĩ di cư hầu hết trẻ và chưa có mấy tên tuổi, trừ Vũ Hoàng Chương.

Họ đã hình thành một trào lưu văn học mới qua tờ Sáng Tạo với Mai Thảo, Trần Thanh Hiệp, Doãn Quốc Sỹ.

Từ phương Tây đổ về với nhiều trí thức trẻ, hầu hết từ Pháp về và khơi mào, cổ võ cho xu hướng triết học Hiện sinh cũng như thơ tự do.

Triết học trở thành thời thượng. Cả một thời. Cả giới trẻ. Nó xâm nhập vào văn chương, thi ca, tôn giáo cũng như thái độ chính trị.

Nhất là thái độ dấn thân, nhập cuộc. Với những tâm trạng, thao thức, chán chường, sự phi lý của cuộc đời. (Xin xem thêm bài “20 năm triết học Tây Phương ở miền Nam Việt Nam 1955 – 1975” cùng tác giả, Hợp Lưu, 21 Tháng Chín 2008 ).

Cũng là thơ tự do, với Thanh Tâm Tuyền, Quách Thoại tôi vẫn đứng xa mà nhìn, nhưng lại dễ cảm với dòng thơ của Nguyên Sa. Ông có viết một bài nhan đề: Cuộc hành trình tên là lục bát.

Và nếu có cuộc bình chọn, tôi sẽ chọn Nguyên Sa. Này nhé:

“Có phải em mang trên áo bay

Hai phần gió thổi, một phần mây

Hay là em gói mây trong áo

Rồi thở cho làn áo trắng bay”

(Trích Nguyên Sa, “Tương tư”)

Thêm nữa, thơ và nhạc như quyện vào nhau cùng cất cánh bay lên.

Còn nhớ năm 1955, thơ Phan Lạc Tuyên dược nhạc sĩ Đan Thọ phổ thành bài hát “Tình quê hương”:

“Anh về qua xóm nhỏ. Em chờ dưới gốc dừa. Nắng chiều lên mái tóc. Tình quê hương đơn sơ.”

Nguôn: Tinh Hoa - Huế (1956)

Nguôn: Tinh Hoa – Huế (1956)

1957, Cung Trầm Tưởng từ Paris về, hai bài thơ của ông là Mùa thu ParisVô đề (thơ trường thiên) xuất hiện trong tuyển tập Đất đứng của nhóm Quan Điểm. Nhưng tôi vẫn tự hỏi nếu không có chỗ tựa là nhóm Sáng Tạo và thơ Phạm Duy phổ nhạc thì liệu những bài thơ của ông, như Chưa bao giờ buồn thếKhoác kín có được người đời biết đến nhiều hay không?

Sau này Phạm Duy phổ nhạc rất nhiều bài thơ, trong đó có thơ của Phạm Thiên Thư, của Nguyễn Tất Nhiên, của Linh Phương.

Không khí chính trị thuở 55-56 còn ngùn ngụt khí thế chống cộng. Bởi vì thế, ngoài cuốn Trăm Hoa đua nở của Hoàng Văn Chí với khoảng trên dưới 20 chục nhà văn nhà thơ, còn cuốn phim Chúng tôi muốn sống. Người dân miền Nam biết thế nào là cộng sản là nhờ cuốn phim này.

Trích đoạn phim Chúng tôi muốn sống (1956)

Ngay tạp chí Sáng Tạo, tuy làm văn chương mà thái độ chống Cộng cũng không dấu diếm gì. Mai Thảo với Đêm giã từ Hà Nội, 1956. Thanh Tâm Tuyền với Bếp Lửa, 1957, Cát Lầy, 1955, v.v.

Chống cộng như một chính sách có tờ Chỉ Đạo, Văn Hữu. Với người lãnh đạo là Nguyễn Mạnh Côn, tác giả cuốn Đem Tâm tình viêt lịch sử.

Kín đáo hơn với nhà văn Võ Phiến với cuốn, Mưa đêm cuối năm.

Hội họa cũng trở thành thú thưởng ngoạn cao sang của giới trí thức thành thị.

Thập niên cuối 1964-1975

Sau cái chết của nền Đệ nhất Cộng hòa, miền Nam rơi vào những cơn lốc chính trị. Lòng người ly tán. Văn học cũng trở mình.

  • Người trẻ và phụ nữ nhập cuộc

Số những nhà văn đã thành danh như ngưng trệ. Tiêu biểu như Mai Thảo. Thanh Tâm Tuyền. Trước đây, Mai Thảo nhờ tiền tài trợ của Mỹ cho Sáng Tạo, ông sống quá ung dung, viết rất chau chuốt. Nay thì phải kiếm sống, Mai Thảo quay ra viết báo kiếm tiền. Xuống dốc thậm tệ. Thanh Tâm Tuyền trong suốt 10 năm không sáng tác được gì nữa.

Nói chung có một sự tắc nghẽn sáng tác tùy mức độ của mỗi nhà văn. Phần đông chỉ viết như cũ. Như cũ là một hình thức ngưng trệ rồi.

Ngược lại một số người hội nhập vào chiến tranh thì viết rất bạo, rất sông xáo, với lửa, với nhiệt huyết như trường hợp Nguyễn Văn Trung, Lý Chánh Trung, Diễm Châu, Thế Nguyên, Đỗ Long Vân, Nguyễn Quốc Thái, Tôn Thất Lập, Nguyễn Khắc Ngữ, Nguyễn Tử Lộc, Nguyễn Trọng Văn, Nguyên Sa, Thảo Trường, Trần Tuấn Nhậm, Nguyễn Ngọc Lan, Trương Đình Hòe, Trần Trọng Phủ và Lữ Phương.

Một bài thơ lục bát | thủ bút của Nguyên Sa.

Một bài thơ lục bát | thủ bút của Nguyên Sa (1970).

Tiếp đến là một số không nhỏ các nhà văn trẻ, thay thế lớp lớn hơn; phần đông họ ở trong quân ngũ, một tay cầm súng, tay kia cầm bút. Trong số 263 nhà thơ mà Trần Hoài Thư trích đăng trong: Thơ Miền Nam trong thời chiến, hơn quá nửa là quân nhân.

Tôi có thể nói như thế này: giai đoạn này Tuổi trẻ như một giai cấp. Họ lớn lên trong chiến tranh. Trưởng thành trong chiến tranh, làm văn thơ sau mỗi trận địa. Và thơ văn của họ hầu hết là mô tả: nỗi buồn chiến tranh.

Tiêu biểu là các nhà văn trong lứa tuổi của Trần Hoài Thư.

Trong phần giới thiệu thơ văn của họ, chúng ta sẽ có dịp chứng nghiệm điều đó. Và đây cũng là dòng cảm thức trổi bật nhất, hiện thực nhất về cuộc chiến này.

Họ là những nhà văn một cách nào đó phải nhập cuộc và là nhân chứng cho cuộc chiến tranh này mà trong số họ có nhiều người không còn có cái may mắn trở về.

Thơ của họ, văn của họ là hòa với mồ hôi, tiếng súng và đôi khi cả máu của họ nữa.

Ngôn ngữ họ xử dụng là thư ngôn ngữ đôi khi sống sượng, chửi thề và xưng hô mày tao với nhau. Nhiều khi thái độ là buông thả, nhậu nhẹt.

Điều thứ hai, một số đông phụ nữ. Dù cũng trưởng thành trong chiến tranh, nhưng thái độ họ khác hẳn, họ trở thành những nhà văn có tên tuổi như thể họ thế chỗ cho nhà văn đàn ông. Không kể những người đã đi trước, ở giai đoạn 1955, như Nguyễn Thị Vinh, Linh Bảo, bà Tùng Long.

Tên tuổi những nhà văn thế hệ 64-75 là Nhã Ca, Túy Hồng, Nguyễn Thị Hoàng, Trùng Dương, v.v.

Đặc điểm là họ chỉ viết về chính mình. Về mình đây có thể hiểu là viết về những khát vọng của chính thân xác họ. Viết thế là cách dùng chữ nhẹ nhất.

Nhã Ca viết Bóng tối thời con gái. Tuổi dậy thì. Tuyển tập Sống một ngày. Người tình ngoài mặt trận. Tuyển tập 10 truyện trong Khi bước xuống như Kể trong buồn bã, Cơn sốt tỉnh nhỏ, Con chung con riêng, Dấu chân nàng. Truyện dài Xuân thì.

Hình như, theo phân tâm học, càng không đẹp, càng viết khỏe, càng bị ám ảnh dục tính, một thứ dục tính đã được cao thượng hóa.

Hình như họ giống nhau và thi đua viết như thế.

Túy Hồng nào kém. Trong Thở dài có Vòng tay anh, Ngày xuân, Đêm xuân, Nhìn xuống rồi tiếp đến Vết thương dậy thì, Tóc mai ngìn xưa.

Rồi đến Nguyễn thị Thụy Vũ với Mèo đêm. Lao vào lửa Lửa đây không phải là lủa chiến tranh đâu. Lửa đây gồm truyện: Chiếc giường, Lao vào lửa, Đêm nổi lửa. Truyện dài: Thú Hoang.

Nguyễn Thị Hoàng với truyện dài: Vòng tay học trò, Tưởi Saigon. Tập truyện ngắn Cho những mùa xuân phai, v.v. Và các truyện dài: Tiếng chuông gọi người tình trở về, Vào nơi gió cát, Tiếng hát lên trời.

Trùng Dương với Mưa không ướt đất, Vừa đi vừa ngước nhìn.

Nói chung, họ viết đậm đặc phái tính như một cuộc trình diễn giới tính, hay phô bày những ẩn ức, những ham muốn, những chờ đợi ẩm ướt bất kể ngoài kia tiếng bom đạn vọng về thành phố.

Khiếp quá. Chỉ cần đọc nhan đề chuyện thôi đã thấy ẩm ướt rồi. Đây là chuyện năm xưa.

  • Dịch thuật

Phải chăng sự bế tắc sáng tác của một số nhà văn đưa đến hiện tượng tràn lan sách dịch? Đúng một phần. Nhu cầu người đọc ngày càng đa dạng hơn nên sách dịch cung ứng đúng lúc.

Sách dịch đủ loại, nhất là sách truyện (Xin xem thêm “20 năm văn học dịch Miền Nam” cùng tác giả).

Thị phần sách dịch chiếm đến 75% số sách đọc là nhiều lắm.

Đó là một hiện tượng chỉ thấy xảy ra vào những năm cuối 1960-1975.

Ba yếu tính văn học làm nên văn học miền Nam

  • Sự chối bỏ văn học trước 1954

Một trong những yếu tố mạnh của dòng văn học miền Nam sau 1954, theo tôi, là sự chối bỏ những gì đi trước nó, đôi khi sự khước từ đi quá mức một cách phũ phàng-mặc dầu cái ‘Văn Nghệ hôm nay’ vẫn chưa định hình và rõ mặt.

Khước từ, chối bỏ coi như bước đi của văn học.

Khước từ trong văn chương đã đành, nhất là trong lĩnh vực thi ca, hội họa và âm nhạc.

Nó đưa đến kết quả là tính đa dạng trong văn học miền Nam không mang tính đồng phục. Nó lớn mạnh không phải vì nó họp thành trường phái giống nhau mà lớn mạnh ở chỗ khác nhau.

Sáng Tạo chết yểu cũng một phần muốn tập họp phe nhóm. Thay vì có chung một chí hướng thì nó thực sự lại tạo thành một ghetto văn học.

Áo thụng vái nhau. Mai Thảo soi gương chỉ thấy Mai Thảo, cùng lắm thấy Thanh Tâm Tuyền.

Như trong trường hợp TLVĐ trước đây, không ngồi cùng chung chiếu với TLVĐ là bị chế diễu, vùi dập như trong trường hợp Vũ Trọng Phụng.

Sáng Tạo sau này bước vào vết xe đổ mà TLVĐ đã để lại.

Và người phản đối mạnh mẽ nhất về tinh thần bè phái của Sáng Tạo là Nguyên Sa. Trong một bài viếtt phê bình có một không hai của Nguyên Sa: Một bông hồng cho Văn Nghệ. (Nguyên Sa, Một bông hồng cho văn nghệ, NXB Trình Bày, Sài Gòn, 1967. Bản điện tử do talawas thực hiện).

Ông chỉ trích gián tiếp nhóm Sáng Tạo với nhận định là

Ông còn chỉ trích Sáng Tạo là một thứ nền Văn Nghệ trú ẩn, ám chỉ Mai Thảo ngồi trong tháp ngà.

Trên đây là mấy nét sinh động của dòng văn học miền Nam thể hiện qua những nhà văn sẽ được giới thiệu trên DCVOnline.net

  • Tinh Thần tự do sáng tác

Điểm mạnh thứ hai của văn học miền Nam không chối cãi được là tinh thần tự do sáng tác trong Văn Học miền Nam, trong sự phô diễn tư tưởng, trong sự đối đầu giữa các nhà cầm bút như một cõi riêng.

Mỗi nhà văn là một thế giới. Mai Thảo. Võ Phiến. Dương Nghiễm Mậu. Bình Nguyên Lộc. Sơn Nam, Duyên Anh, Thanh Tâm Tuyền. Nguyên Sa. (Chỉ nội thi ca thôi đã bao nhiêu dòng khác biệt. Trần Văn Nam gọi là Thơ vắt dòng).

“Chúng ta là một thế hệ không có đàn anh – một thứ Nihilisme. ‘đao to búa lớn trước ta không có ai’.”

Sách cũ miền Nam. Nguồn: OntheNet

Sách cũ miền Nam. Nguồn: OntheNet

Người khuynh tả, người khuynh hữu, người chống chiến tranh, mỗi người chọn một chiến tuyến. Có những tiêng nói của tuổi trẻ, của khát vọng, của đối đầu, của không tương nhượng. Người ta thường lấy tạp chí Bách Khoa như một nét tương phản, đa dạng trong các tác giả cộng tác cho Bách Khoa.

Đó cũng là tiếng nói của những nhà văn trẻ, có thể chưa thành danh, chưa có chỗ đứng như các đàn anh, như trường hợp Trần Hoài Thư và nhóm bạn bè của ông.

  • Sư ưu tư và tinh thần dấn thân, nhập cuộc

Cái điểm thứ ba của nền văn học ấy là sự ưu tư trước thời cuộc với tinh thần dấn thân, nhập cuộc, sự thức tỉnh theo ý nghĩa của Søren Kierkegaard. Tinh thần ấy buộc nhà văn phải từ bỏ cái tôi tự thân (En soi), đi ra khỏi mình trở thành cái tôi, tự quy vì người (être pour soi). Nó chống lại cái tinh thần nghiêm chỉnh (esprit du sérieux) lúc nào cũng như những ông cụ non cố chấp và giáo điều, không rời bỏ được cái vỏ ốc của mình.

Nói, theo cách của nhóm Nhân Văn Giai Phẩm, nhà văn không phải là những ông bình vôi, mỗi ngày vôi đóng cứng nhắc, bịt miệng cái bình vôi. Chính trong những tinh thần đó mà những nhà văn cột trụ như Mai Thảo, Võ Phiến sau này cảm thấy không còn có khả nắng thích ứng với thời cuộc nữa,

Nhiều nhà văn trẻ đã dần thay thế lớp nhà văn thời 1954, mặc dầu việc viết của họ chưa hẳn đã đạt. Nhưng tiềm năng của họ là không chối bỏ được. Nhưng ít ra, họ là nhân chứng sống cho một giai đoạn biến động trước khi miền Nam bị sụp đổ.

Vài nét phác họa chân dung văn học miên Nam ở đây để gửi tới bạn đọc những chứng từ sẽ lần lượt giới thiệu trên DCVOnline.net

© 2016 DCVOnline

Nếu đăng lại, xin đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net”