(hình minh họa từ https://errantscience.com/blog/2017/08/28/am-i-too-old-to-do-a-phd/)
Hồi mới xách dép đi làm NCS, mình vẫn U30 (hơi cuối cuối một chút), vẫn còn xanh non. Và tưởng mình ngon vì còn trẻ. Thật là ngây thơ.
Đến Adelaide, cú sốc đầu tiên mình nhận là được xếp ngồi chung phòng với bảy NCS khác, trong đó có sáu người Trung Quốc và một người Úc. Tất cả đều vừa tốt nghiệp Đại học (tầm 21-23 tuổi.)
Mình được tôn lên làm “lão đại.” Ngôi vị này phải mất mấy tháng mới bị soán, khi có một vì còn già hơn mình xuất hiện.
Lần đầu tiên thực sự thấy mình già. Già thật là giààà vì “mấy đứa này làm xong PhD thì vẫn còn trẻ chán so với mình khi chưa đi xin học bổng.”
Cái khổ tâm của việc già là các “em út,” mỗi khi vật vã với đề tài, đều tìm bạn để giải bày nỗi khổ. Các chú ấy không để ý rằng lão đại cũng thường xuyên đấm tay vào màn hình, cuối tuần lại xin phép vợ lon ton lên office như đi trẩy hội.
Mặt “lão đại” cũng thường đơ mỗi khi nghe “em út” tâm sự, chủ yếu vì không hiểu người ta đang nói cái gì. Không lẽ lúc người ta đang cảm xúc dạt dào mà bậc đàn anh lại rụt rè “Chú nói chậm chút được không? Anh nghe không rõ…”
Được một năm thì thầy cho “xuống núi” đi hội chợ. Sau một năm tu luyện, xa lánh hồng trần, mình tưởng rằng mình giờ đã có năng lực lấp biển dời non. Tối thiểu thì bây giờ mà nghe ai than thở thì cũng hiểu được năm-sáu phần.
Rồi mình sốc tập hai. Gặp cơ man nào là người, đa phần đều là NCS trẻ (thành phần chủ yếu của các hội thảo dạng EGU/AGU.) Ai cũng nói tiếng Anh như nước chảy mây trôi, dù ngôn ngữ bản địa của họ cũng chẳng phải tiếng Anh.
Mình về núi tu luyện thêm một năm, rồi sau đó đi EGU lần thứ hai. Cơ duyên run rủi, mình được gặp một “rising star” trong ngành hẹp. Và đây là tập sốc nặng nhất đời NCS của mình.
Bạn này người Hà Lan, và bắt đầu làm NCS (ở Anh) trước mình một năm (nhưng trẻ hơn mình ba - bốn tuổi.)
Năm đầu tiên làm NCS thì bài báo đầu tiên của bạn ấy cũng xuất bản, đăng trên Nature Climate Change (một trong những tạp chí có tầm ảnh hưởng mạnh nhất trong lĩnh vực mình làm.) Bên cạnh tìm ra ảnh hưởng của BĐKH đến chế độ dòng chảy, bài báo này còn đề xuất một thông số mới để phân loại chế độ thủy văn, khá hữu dụng cho các nghiên cứu về sau (cá nhân mình cũng dùng chỉ số này sau đó.)
Bạn này tốt nghiệp chỉ sau ba năm làm NCS, với bảy bài báo xuất bản ở các tạp chí hàng đầu, và đều có ảnh hưởng khá mạnh đến hướng nghiên cứu ở một số lĩnh vực hẹp. Và tất nhiên, bạn ấy có một việc làm rất tốt ở một viện nghiên cứu hàng đầu thế giới trong ngành.
Cứ mỗi một năm trôi qua, mình lại hồi tưởng về ba cú sốc trên để tự nhắc mình về áp lực đến từ những “cơn sóng sau.” Nhưng dần dần hiểu thêm về nghề, mình nhận ra cách tính tuổi của mình hơi sai.
Khoảng nửa đầu năm thứ ba thì thầy bắt đầu hỏi mình về kế hoạch cho tương lai.
Thầy nói nếu không định hướng lâu dài theo hướng hàn lâm thì hoàn thành luận án ngay và luôn đi, để tiết kiệm mấy năm cuộc đời.
Nếu thích theo con đường nghiên cứu hàn lâm thì thầy khuyên làm NCS càng lâu càng tốt (học bổng của mình cho phép làm NCS tối đa bốn năm.) Thầy sẽ cho mình tự do để xây dựng hướng nghiên cứu, và hi vọng mình sẽ có thể dằn thêm vài bài báo tốt để làm vốn “khởi nghiệp.”
Thấy nhắc về những cơ hội trong tương lai mà mình nên nắm, vốn chỉ dành cho “early career scientists,” những người tuổi nghề còn nhỏ (tốt nghiệp PhD trong vòng 5-7 năm.)
Chợt nhận ra mình đã hiểu sai về “tuổi.” Chọn thời điểm chui ra khỏi bụng mẹ để tính tuổi nghề là quá sai, vì người ta chỉ quan tâm bạn ra lò vào năm nào. Tất nhiên, “sóng sau” vẫn cứ cuồn cuộn xô, và ta vẫn cứ phải xách dép lên mà chạy…
Tâm sự mỏng cuối năm của một "thiếu nhi" sắp hai tuổi…
Ann Arbor, 25/12/2020