AA, 17/02/2020
Đang mùa “campus interview” (phỏng vấn tại trường) ở Mỹ, nên poster kiểu này tuần nào mình cũng gặp. Gặp hoài nên cũng muốn viết về sự cạnh tranh việc làm trong ngành công nghiệp đào tạo ở Mỹ. Mình viết công nghiệp đào tạo không đóng ngoặc kép vì (theo mình) bản chất hệ thống đào tạo đại học ở các nước nói tiếng Anh (ví dụ Mỹ, Anh, Úc, New Zealand) là như vậy. Cũng phải ghi chú là hầu hết các trường đại học công ở Mỹ (lớn hay nhỏ) đều hoạt động theo nguyên tắc phi lợi nhuận. Nghĩa là các nguồn thu đều được tái đầu tư cho sự nghiệp đào tạo qua các kênh khác nhau, chứ không nhằm mục đích làm giàu cho bất cứ cá nhân nào. Tuy nhiên, đào tạo vẫn là một ngành công nghiệp, vì quy mô của các trường (đặc biệt là các trường hàng đầu) khá lớn, nên cần vận hành chuyên nghiệp và chuẩn xác theo các quy trình công nghiệp như ở các công ty đa quốc gia. Lấy ví dụ về trường Đại học Michigan, thống kê năm 2018 (https://en.wikipedia.org/wiki/University_of_Michigan) cho biết họ có khoảng 6.800 academic staff (nghiên cứu viên, giảng viên, giáo sư) và gần 19.000 administrative staff (nhân viên hành chính). Số lượng nhân viên đông như thế có thể hiểu được từ vài con số sau:
- Tổng số sinh viên: 46.000 (khoảng 30.000 sinh viên đại học và 16.000 sinh viên sau đại học).
- Sinh viên quốc tế: khoảng 7% ở bậc đại học và 34% ở bậc cao học.
- Kinh phí giải ngân hàng năm: 8,99 tỷ USD (khoảng 5% GDP 2017 của Việt Nam)
- Quỹ nghiên cứu hàng năm: 1,5 tỷ USD
Những bạn có “cơ duyên” làm thủ tục hành chính nhiều thì sẽ hiểu cái nhức đầu đi kèm khi vận hành một cỗ máy với những con số khổng lồ này. Lấy ví dụ một việc đơn giản nhất là nhận một học giả khách mời như mình đến làm việc trong 1-2 năm (một năm họ tuyển khoảng 500-600 người như mình), bộ máy hành chính của họ sẽ phải xử lý (thêm) kha khá đầu việc trải dài từ tài chính đến pháp lý. Ví dụ như: kiểm tra trình độ tiếng Anh từ xa; liên hệ bên thứ ba duyệt hồ sơ công dân, án tích; yêu cầu cục xuất nhập cảnh phát hành phiếu cư trú DS2019; khai báo thông tin thuế cho người nước ngoài; hướng dẫn thủ tục hành chính cho học giả quốc tế; báo cáo với cục xuất nhập cảnh về quản lý người nước ngoài; xuất form DS2019 cho vợ/con; tổ chức gặp mặt sinh viên/học giả quốc tế hàng tháng; vân vân và mây mây… Đọc là thấy mỏi mắt rồi.
Nói tóm lại là quy mô lớn và yêu cầu cao thì phải công nghiệp hóa để có thể xử lý hết đống công việc phát sinh ngồn ngộn như núi kia một cách hiệu quả.
Quay lại chuyện chính: thị trường việc làm trong các trường đại học và chuyện tuyển dụng. Ở Mỹ, một người trong 2-3 năm đầu sau khi nhận bằng Tiến sỹ, nếu muốn theo đuổi con đường trở thành Giáo sư (GS) thường sẽ bắt đầu với vị trí Assistant Professor (tạm dịch là trợ lý giáo sư - TLGS). Nếu được tuyển vào làm TLGS (đôi khi cả với vị trí Associate Professor; tạm dịch là Phó giáo sư – PGS), đồng hồ của bạn sẽ bắt đầu đếm ngược trong vòng từ 5 đến 6 năm. Khi hết thời gian này (ai tự tin thì có thể đặt ngôi sao hi vọng sớm), nếu chứng tỏ được rằng mình “võ công đã cao lại được quần hùng tín nhiệm”, thì hội đồng của khoa sẽ bỏ phiếu phê duyệt cho bạn vào “biên chế” (TLGS sẽ được thăng chức thành PGS). Khi đã vào được biên chế thì bạn đã an toàn, không ai “đụng” được nữa (tất nhiên vẫn phải làm việc đàng hoàng và đừng làm chuyện gì khủng khiếp, bêu xấu trường để bị đuổi). Nếu sau giai đoạn thử thách mà không chứng tỏ được bản thân, TLGS (hoặc PGS, GS) sẽ phải kết thúc hợp đồng, và quay lại thị trường lao động để tìm việc khác.
Vậy để tuyển một vị trí TLGS, PGS, hoặc GS thì các trường đại học sẽ làm như thế nào. Tổng thể thì quy trình cũng khá giống như các ngành nghề khác, và gồm bốn bước: (1) duyệt hồ sơ, (2) phỏng vấn sàng lọc, (3) phỏng vấn tại trường, và (4) thảo luận về hợp đồng lao động. Tuy nhiên, để đi hết bốn bước này thì hơi mất thời gian. Giả sử một trường muốn tuyển TLGS vào mùa thu năm nay (8/2020): trường sẽ đăng thông báo tuyển dụng từ giữa năm 2019, duyệt hồ sơ từ tháng 8 đến tháng 11/2019, phỏng vấn sàng lọc kéo dài khoảng 1-2 tháng sau đó, và phỏng vấn tại trường nhiều khả năng sẽ tổ chức trong khoảng từ cuối tháng 1 đến tháng 4/2020. Sau đó sẽ là thảo luận hợp đồng và ký hợp đồng làm việc cũng như các thủ tục hành chính khác.
Bước đầu tiên của quy trình này là lọc hồ sơ xin việc. Ngoài CV và thư giới thiệu thì các ứng viên thường sẽ phải nộp thêm một bài luận về hướng nghiên cứu (3-5 trang), một bài luận về kinh nghiệm giảng dạy (1-2 trang), một bài luận về thúc đẩy sự đa văn hóa (1-2 trang). Theo “lời đồn” thì cứ một vị trí mở ra sẽ có khoảng 200-300 hồ sơ nộp vào. Nguyên nhân của số hồ sơ khủng này đến từ sự mất cân đối cung – cầu trong thị trường học giả ở Mỹ (theo thống kê thì chỉ khoảng 3-5% người có bằng tiến sỹ trở thành TLGS, PGS, hoặc GS). Có một bài báo viết vui là cứ một GS về hưu sẽ để lại phía sau từ 7 đến 8 đứa học trò - và đám hậu bối này sẽ phải đánh nhau ác liệt để giành giật cái vị trí trống kia. Tất nhiên bức tranh này là bản tối giản, vì nhiều người sẽ không tham gia vào cuộc chiến kia; và cũng có thành phần từ bên ngoài nhảy vào. Quay lại chuyện tuyển dụng, hội đồng tuyển dụng sẽ lướt qua hồ sơ của ứng viên trong khoảng (lại nghe đồn) 5-10 phút, và sẽ giữ lại từ 10 đến 20 cái tên.
Bước thứ hai là phỏng vấn sàng lọc đối với 10-20 cái tên được “shortlisted”. Mỗi trường chọn một cách khác nhau, nhưng hiện tại mình thấy phỏng vấn qua Skype thường là sự lựa chọn hàng đầu (cũng có nơi sắp xếp gặp tại các hội thảo ngành). Họ sẽ sắp xếp thời gian để toàn thể hội đồng tuyển dụng được lắng nghe ứng viên trình bày và thảo luận. Các trường ĐH định hướng nghiên cứu có thể yêu cầu ứng viên phải báo cáo hướng nghiên cứu trong khoảng 10-15 phút cho họ nghe, và nêu rõ sẽ dự định xin quỹ nghiên cứu ở những đâu. Nói thêm là ở các trường nghiên cứu việc xin được quỹ nghiên cứu đóng vai trò mấu chốt để đi từ TLGS lên PGS. Hội đồng tuyển dụng thường sẽ giữ lại 3-5 cái tên sáng giá nhất để gửi thư mời đến phỏng vấn tại trường.
Bước thứ ba là campus interview (phỏng vấn tại trường) tức là mời học giả đến trường để phỏng vấn trực tiếp (thường sẽ kéo dài từ 2 đến 3 ngày). Vì hiện tại đang là mùa cao điểm nên mình cũng nhận thấy nhiều thứ thú vị trong bước này.
CHUYỆN THÚ VỊ 1: ỨNG VIÊN SẼ BỊ SOI BỞI NHỮNG NGƯỜI XA LẠ MÀ (CÓ THỂ) KHÔNG BIẾT
Trước khi bạn đến, thư ký khoa sẽ gửi email cho toàn thể cán bộ, giảng viên, sinh viên của khoa về việc họ đang tuyển vị trí ABC, và XYZ sẽ đến phỏng vấn. Ngoài việc thông báo là ngày đó, giờ đó bạn sẽ báo cáo (họ gọi là job talk - tạm dịch là báo cáo về thành tựu; còn mình hay gọi là “show hàng” cho ngắn), họ cũng gửi luôn toàn bộ hồ sơ tuyển dụng của bạn (trừ các thư giới thiệu) cho toàn thể công chúng. Sau khi đọc hồ sơ, bất cứ ai (từ sinh viên đến GS) cũng có thể đăng ký phỏng vấn mở, và nếu được duyệt thì sẽ có 45 phút để đối thoại 1-1 với ứng viên. Ai làm trong giới học thuật sẽ biết là dân học thuật “thích soi” đến mức nào, nên sẽ có một lực lượng không nhỏ các cá nhân tò mò nhào đi google coi bạn là ai. Họ cũng sẽ tìm hiểu xem bạn đã từng đi đâu, đăng gì trên facebook/linkedIn, có website riêng không, đã post cái gì, có được báo chí nhắc đến không… Những người quá “bận” còn có thể vào một số website chuyên dụng để xem XYZ đã từng sống ở những địa chỉ nào tại Mỹ, và có sống cùng ai không 😅
CHUYỆN THÚ VỊ 2: SMALL TALK MỆT XỈU
Hôm nọ viết về small talk rồi (https://www.facebook.com/hongxdo/posts/2994951350523675), nên ai có đọc bài trước trong #chuyenseries sẽ biết small talk (nói nhỏ; chuyện phiếm) là gì. Các nơi khác mình không rõ, nhưng UM-SEAS (chỗ mình đang làm) thường mời ứng viên đến trong hai ngày – chi phí đi lại do khoa chịu. Hội đồng tuyển dụng sẽ sắp xếp người đón ứng viên ở sân bay, và cuộc phỏng vấn bắt đầu từ đây. Họ sẽ small talk, medium talk, big talk để xem bạn là người như thế nào. Trong hai ngày sau đó, bạn sẽ được giao cho một cái phòng làm việc tạm, và sẽ lần lượt từ 45 phút này đến 45 phút khác nói chuyện với những người xa lạ. Bạn chả biết vẹo gì về họ, nhưng bạn sẽ ngờ ngợ là họ biết rất rõ về bạn (vì họ đã search nát cả google rồi). Có khi kết thúc hai ngày này, một số chủ đề sẽ được bạn loại khỏi danh sách “ưa nói” của mình (vì phải nói hoài – mệt!).
CHUYỆN THÚ VỊ 3: ĂN SÁNG VÀ ĂN TỐI
Lịch ăn sáng và ăn tối của bạn sẽ theo lịch do hội đồng tuyển dụng sắp xếp tại nhà hàng do khoa chọn (ở các nước phương Tây ăn trưa chỉ kéo dài có 30 phút nên không có lịch ăn trưa). Cũng tương tự như phỏng vấn mở, ai cũng có thể đăng ký tham gia ăn cùng bạn (số lượng có hạn – tiền ai nấy trả 😅). Họ sẽ nhìn xem bạn mặc gì, gọi đồ ăn có quả quyết không, nói chuyện với phục vụ ra sao, dùng dao nĩa + nhai đồ ăn như thế nào 😅, và ứng đối với tình huống “một chọi mười” ra sao. Suốt buổi mà bạn chỉ nói chuyện với một, hai người là coi như xong. Mình có thử search “campus interview dinner”, và hơi bất ngờ vì có cả tá những bài viết về chủ đề này (ví dụ: những món không nên gọi, cách nói chuyện, cách ăn mặc, nên xem trước thực đơn…).
CHUYỆN THÚ VỊ 4: JOB TALK (BÁO CÁO VỀ THÀNH TỰU – HAY “SHOW HÀNG”)
Có một thực tế là hầu hết những trường mời bạn đến phỏng vấn không có nhiều cá nhân làm về lĩnh vực bạn nghiên cứu. Vì nếu không, bạn và những đồng nghiệp trong tương lai sẽ dẫm lên chân nhau, nồi da xáo thịt khi cạnh tranh xin quỹ nghiên cứu. Họ tuyển bạn vào làm là vì bạn có thể hoàn thiện đội hình của họ. Cũng giống như trong đá banh, đội mạnh về hàng thủ sẽ chiêu mộ tiền đạo hoặc tiền vệ chứ đi mua thêm hậu vệ chắc không phải là ưu tiên. Thành ra, cái thú vị khi “show hàng” là bạn phải làm sao để khi nhìn slide và nghe bạn nói, những “kẻ ngoại đạo” có thể hiểu bạn đang nghiên cứu cái gì (họ không hiểu là lỗi của bạn), và không đánh giá những thứ bạn làm là “quá tầm thường” (nghiên cứu dễ quá, ai cũng làm được; hoặc không có sức ảnh hưởng). Khó chứ không dễ! Khi chia sẻ với dân trong nghề, người ta sẽ biết ngay nội dung nghiên cứu nào cần cho ngành (chưa ai làm), cái khó của hướng nghiên cứu đó nằm ở đâu, đồng thời bạn không cần giới thiệu các kiến thức cơ bản của ngành. Chỉ trong 60 phút, phải giảng giải cho dân ngoài nghề hiểu, và thuyết phục họ về tầm quan trọng của nghiên cứu bạn đang theo đuổi thì không dễ chút nào.
CHUYỆN THÚ VỊ 5: QUYỀN SINH SÁT KHÔNG CHỈ NẰM TRONG TAY MỘT VÀI NGƯỜI
Khi bạn đã hoàn thành buổi phỏng vấn tại trường và bay về nơi cư trú, thì một cuộc bình bầu online sẽ được tổ chức. Đoạn ghi hình buổi “show hàng” của bạn sẽ được gửi cho toàn thể sinh viên, giảng viên, nhân viên trong khoa. Bên cạnh đó, ai cũng có quyền đăng nhập vào hệ thống và “bình chọn” cho từng ứng viên. Căn cứ vào quá trình tiếp xúc với bạn (hoặc xem hồ sơ, đoạn ghi hình), họ sẽ chấm điểm, giả dụ từ 1 (tồi) đến 5 (xuất sắc), cho các tiêu chí khác nhau. Ở trường mình thì các ứng viên được chấm về các tiềm năng: tạo ảnh hưởng về mặt học thuật, năng suất nghiên cứu, xin quỹ nghiên cứu, mở rộng mạng lưới hợp tác nghiên cứu, kỹ năng quản lý và giao tiếp, và năng lực hướng dẫn sinh viên (thạc sỹ, tiến sỹ). Ngoài ra, họ còn đánh giá ứng viên có phù hợp với văn hóa của khoa không (ví dụ ở UM-SEAS thì phải quan tâm đến môi trường, chống biến đổi khí hậu, chống phân hóa giàu nghèo, có ý thức phát triển bền vững, và ủng hộ bình đẳng giới). Sau khi có kết quả bình bầu cho tất cả ứng viên được mời đến trường phỏng vấn, hội đồng sẽ căn cứ vào đây để đưa ra xếp hạng các ứng viên. Bảng xếp hạng này là yếu tố chính trong quyết định tuyển dụng của trường.
Khi biết về cái quy trình này, mình thực sự thắc mắc là sao phải phức tạp như vậy. Nhưng khi nghĩ kỹ thấy cũng dễ hiểu. Khi tuyển một thành viên mới, mọi thành viên trong khoa (từ sinh viên đến nhân viên, giáo sư) sẽ phải làm việc với người này trong 5-6 năm (nếu có giai đoạn thử thách) hoặc mãi mãi (đối với trường hợp được tuyển vào không qua thử thách). Sẽ thật thê thảm nếu tuyển về một cá nhân không thể đóng góp cho sự phát triển chung của khoa, hoặc họ “cá tính” quá và cả khoa sẽ phải chịu đựng họ mãi mãi. Cũng giống như một đội bóng, cũng có trường hợp cầu thủ giỏi nhưng khi tuyển về thì đá “như hạch”, chỉ chuyên phá bĩnh, làm “rối đội hình” chứ không được tích sự gì.
Riêng việc tổ chức phỏng vấn tại trường, ý nghĩa còn ở chỗ tạo điều kiện cho các ứng viên đánh giá sự phù hợp của họ với môi trường mới (cả môi trường làm việc lẫn sinh sống). Dù gì họ cũng sẽ phải gắn bó với nơi làm mới trong nhiều năm – nên khả năng phát triển của vợ/chồng, con cái; hệ thống giáo dục, y tế; điều kiện khí hậu, văn hóa xã hội cũng là các yếu tố phải tính đến. Quy trình tuyển dụng rất mệt mỏi, không chỉ với ứng viên mà với cả hội đồng tuyển dụng. Việc tuyển dụng cũng khá tốn kém, nên các trường đều muốn tránh tuyển đi tuyển lại một vị trí. Nếu ứng viên được tuyển và rồi xin nghỉ sau một, hai năm (dù họ rất xuất sắc) vì sống không quen, thì khoa sẽ lại phải tuyển dụng lại – chuyện này thì không ai muốn. Chưa kể là nếu không khéo, khoa có thể mất luôn suất tuyển dụng này vào tay đơn vị khác (đang được chú trọng phát triển hơn), và đó là một tổn thất lớn cho khoa.
Tuần này lại có hai người đến trường phỏng vấn. Nhộn nhịp phết…