AA, 22/02/2020
Hồi còn ở Việt Nam, chưa bao giờ mình nghĩ đến tiền. Không phải vì mình là đại gia (tiểu gia cũng không phải), mà bởi mình là mẫu “nhà giáo điển hình”: nhỏ ba mẹ nuôi, vừa vừa thì vợ nuôi, còn già thì con nuôi. Không phải nói đùa, đến cả cái quần đùi mình cũng chưa bao giờ tự đi mua 😂 Thành ra, tiền đâu phải là vấn đề. Còn nhớ hồi đó, mỗi lần hai vợ chồng bàn bạc chuyện tài chính, tiền bạc, mình lại làu bàu “Anh KHÔNG cần tiền!” Mạnh mẽ vãi nồi! Vợ cũng không nói nhiều, chỉ lẩm bẩm “CHƯA cần không có nghĩa là KHÔNG cần”. Tiếng Anh có câu “Ignorance is a bliss”, theo dịch giả Google Trần có nghĩa “vô minh là phúc lạc” (dịch kiểu bác Gồ thì chỉ có dịch Corona mới sánh nổi), còn dân gian thì có câu “ngu như mày thật là phước đức”. Chắc để dành cho mình hồi đó.
Cuối năm 2014, mình nhận học bổng đi Úc, và quyết tâm mang cả nhà đi cùng. Để nhận visa thì phải đóng phí bảo hiểm y tế cho cả nhà, hết thảy 14.000 đô Úc cho 51 tháng đi học. Học bổng hỗ trợ mình khoảng $2.500, còn lại đâu đó $11.500 (tầm hơn 200 triệu tiền Việt Nam tại thời điểm đó) là số tiền gia đình mình cần đóng. Mình có sẵn 0 đồng, còn lại thì “huy động” từ các khoản “viện trợ không hoàn lại”, trong đó có một phần từ của hồi môn của vợ. Lần đầu tiên nếm mùi tiền, lại là vị đắng nghét cả cuống họng. Tất nhiên, bất cứ chuyện gì cũng có nhiều cách giải quyết khác nhau, trong đó sẽ có một cách không cần tiền. Ví dụ, mình có thể chọn đi một mình chẳng hạn, nhưng đó không phải cách mình muốn. Thỉnh thoảng mình cứ hay ước chuyện năm 2014 đừng xảy ra, vì “vô minh là phúc lạc”.
Sang Úc, mình đặt mục tiêu phải gom tiền để bù lại khoản “chi trước” này. Đàn ông đàn ang là phải bản lĩnh như vậy! Tính thử mới thấy để dành tiền học bổng là không đủ, vì chỉ thuê cái nhà không đã hơn $1.000/tháng, thành ra phải kiếm thêm thu nhập. Lúc mình qua thì các môn học đã sắp xếp xong trợ giảng rồi, nên mình gửi đơn đi xin việc làm thêm ở bên ngoài. Gửi đi nhiều nhưng không nhận được cái hồi âm nào – chắc tại thư viết hay quá – nên mình chuyển sang tìm việc bằng “vốn sẵn có” (ý nói là sức cơ bắp), và nhanh chóng được nhận đi cắt nho. Lên tới trang trại, đoàn mình toàn người lớn tuổi, nên 2 thanh niên (tính luôn mình) được giao làm “package boy” thay vì cắt nho. Ở Úc, mỗi công nhân cắt nho sẽ được giao một cái thùng, cắt xong cứ bỏ vào đó. Package boy thấy thùng nào đầy thì vác đổ vào xe chở nho đi cùng, và thay đổi thùng mới cho công nhân cắt nho. Công việc đơn giản vậy thôi. Làm được một tuần thì mình nghỉ.
Sau đó mình đi làm phục vụ bàn ở một nhà hàng Trung Quốc, rồi chuyển sang làm ở một nhà hàng Việt Nam (NNQ - cũng khá nổi ở Adelaide), rồi cuốn Sushi cho Sushi Train, một cửa hàng thức ăn nhanh của Nhật. Mỗi tuần làm 20 giờ, lương cũng tăng dần theo mỗi lần chuyển việc, nên kế hoạch tiết kiệm có vẻ cũng ổn. Đến tầm tháng 10, thấy lưng hơi đau nên mình xin nghỉ làm sushi, và nguồn thu nhập chỉ còn có việc trợ giảng xin được từ tháng 7/2015. Lương trợ giảng cũng tốt, nhưng số giờ nhận lương rất ít (khoảng 2-3 giờ mỗi tuần), nên tổng thu nhập chả đáng bao nhiêu để thực hiện mục tiêu “lấy lại những gì đã đóng”. Thế là mình nhận thêm việc cleaning (tức là đi dọn dẹp vệ sinh) tại văn phòng điều hành xe lửa của bang Nam Úc. Việc cũng đều, mỗi tối làm 4 tiếng. Cứ khoảng 11-12h đêm, vợ đi làm về trông con thì mình lại lái xe đi làm. Mà cũng phải kiếm người phụ chứ một mình làm không nổi. Những lúc mệt quá thì vợ đi thay. Nghĩ cũng tội, vợ cũng đi làm suốt, lại vừa đi học thêm Anh Văn chứ có rảnh đâu.
Chuyện đi làm thêm nhẹ nhàng nhất là vận hành trạm bơm cho một công ty cấp thoát nước hồi đầu năm 2016. Họ cần người trực 24/7 để đảm bảo đủ nước tưới tiêu trong mùa khô, và nhận 3 sinh viên quốc tế (Việt Nam và Trung Quốc) thay nhau làm. Chuyện vui thường không kéo dài, vì đợt nghỉ lễ kết thúc (người Úc thường đi du lịch vào tháng 1 và tháng 2), các bạn Úc quay lại và được giới thiệu vào làm, trám các vị trí này. Mình chia tay job làm thêm “hời” này như thế. Những trải nghiệm trong thời gian làm cái công việc “hời” kia khiến một buổi tối đầu năm 2016, mình bảo vợ “Em ráng đi làm lấy tiền tiết kiệm, anh sẽ quay lại làm nhà giáo điển hình!” Thế là mình chia tay các công việc làm thêm bên ngoài, và chỉ trợ giảng từ 1 đến 2 môn mỗi kỳ, làm một số việc vặt khác của khoa, và nhận học bổng để sống. Còn chuyện tài chính, tiết kiệm (chuyện của đàng ông đàng ang) thì giao lại cho vợ.
Đây là lần đầu tiên mình thực sự đặt ra một mục tiêu tài chính, và thực sự triển khai các hoạt động tiết kiệm để thực hiện mục tiêu tài chính đó. Trải nghiệm này khiến mình không thể tìm lại được cảm giác “vô minh là phúc lạc” nữa. Vị đắng của tiền, khi đã nếm một lần rồi thì dù có uống bao nhiêu nước giải khát có ga cũng không trôi đi được. Ở Việt Nam, hồi xưa mình hay nghe nói “làm giàu không khó”. Mình nhận ra rằng họ nói đúng. Với năng lực, bằng cấp, kinh nghiệm, công việc, sự nhẫn nại và mạng lưới quan hệ ở thời điểm đó của mình, làm giàu là “nhiệm vụ bất khả thi” (và mình không phải là Tom Cruise).
Câu chuyện đi làm thêm mình kể ở trên là không hiếm ở Úc. Đối với sinh viên quốc tế, nguyên nhân có lẽ do việc làm lao động phổ thông nhiều, và chính phủ Úc không siết chặt quy định đi làm như ở Mỹ và châu Âu. Tuy nhiên, chuyện này không chỉ diễn ra trong giới du học sinh hay dân nhập cư, mà khá phổ biến ở các nước phát triển như Úc hay Mỹ. Ví dụ điển hình là vào các tiệm KFC, McDonald, hoặc HungryJack ở Úc, sẽ thấy học sinh cấp 2, cấp 3 làm là chủ yếu, vì từ 13 tuổi là luật cho phép đi làm rồi (có lẽ ở Việt Nam cũng không hiếm, chỉ là mình không trải qua thôi). Tất nhiên, dân nhập cư và sinh viên du học thì cày trâu hơn, vì nhiều lý do khác nhau. Hiện tượng 21 tuổi mà ngoài việc đi học chỉ biết làm “nhà báo” (về nhà báo với mẹ là hết tiền) như mình có lẽ là thiểu số ở nước ngoài. Mình nhận ra rằng cách chăm con theo xu hướng cho con làm “nhà báo” lâu dài là không phù hợp với sự vận hành của xã hội hiện đại. Vì sao lại chưa đúng? Trong xã hội hiện đại, hiểu biết về tài chính cá nhân của mỗi người trưởng thành là rất quan trọng. Sớm hay muộn trẻ em cũng phải thành người lớn, và một người lớn có trách nhiệm phải biết đặt ra mục tiêu tài chính và hiện thực hóa nó – vì không ai biết được khi nào thì những khoản chi lớn sẽ ập đến. Viện trợ không hoàn lại quá lâu sẽ làm mất cơ hội cho con trẻ trải qua những thử thách nhỏ và vừa sức, sẽ không được rèn luyện tư duy về việc quản lý dòng tiền, và có khả năng trở thành một người lớn u mê (mình là dạng này).
Trong xã hội hiện đại, đặc biệt là ở các đô thị lớn, những người trẻ bình thường (không ở đích đến ngay từ khi bắt đầu) mà mù mờ về chuyện tài chính chỉ có thể lựa chọn một trong hai điểm kết: không giàu hoặc rất nghèo. Lấy ví dụ một người 23 tuổi, đi làm lương tháng 6 triệu (GDP đầu người bình quân của Việt Nam năm 2019), và có kỳ vọng mua một căn hộ khi tròn 30 tuổi. Họ không tìm hiểu giá thị trường, và không biết rằng tối thiểu cần 500 triệu để mua ở khu vực họ muốn sống (chưa kể trượt giá). Trong 7 năm, bạn ấy u mê nên chưa bao giờ làm một bài toán nhẩm xem mỗi tháng tiết kiệm được bao nhiêu tiền, cần kiếm thêm bao nhiều tiền, và có cần phải điều chỉnh kế hoạch hoặc thay đổi mục tiêu hay không. Bạn ấy chỉ lo đi làm công việc của mình, và không chủ động tìm kiếm cơ hội để nâng cao thu nhập. Nếu lấy cái nhà kia để định nghĩa chữ “giàu”, mắt thường ta thấy, “làm giàu” là “nhiệm vụ bất khả thi” cho bạn ấy. Năm 30 tuổi, xui sao bạn ấy vẫn nhớ cái ảo mộng năm 23 tuổi. Bạn ấy sẽ đau khổ, vừa đi vừa chửi đời, chửi người, chửi cả cái làng Vũ Đại, và thắc mắc “Sao tui vất vả, chăm chỉ vậy mà vẫn cứ nghèo?” Đó là cái giá phải trả cho 7 năm sống hạnh phúc trong u mê. Nhiều khả năng, bạn ấy sẽ quay sang giải pháp mà bạn ấy giỏi nhất: làm “nhà báo”.
Mà chuyện dạy con, mình nói hay vậy thôi chứ thay đổi quan niệm của phụ huynh thì không dễ. Có lần Minh đòi đi bán kẹo dạo và hát rong giống mấy bạn ở Úc trên phố đi bộ. Mình không ủng hộ, đúng kiểu phụ huynh Việt Nam. Có điều môi trường cũng đóng yếu tố quyết định, và mình nghĩ con gái sẽ giỏi hơn mình. Vì chị ấy đã lên kế hoạch khá cụ thể: 13 tuổi đi bán KFC, 16 tuổi thi bằng lái xe để làm UberEat! Nói chung, xã hội nào cũng có trường hợp này trường hợp kia, nên không phải ở Úc trẻ em nào cũng đi làm sớm. Cái đó là tùy định hướng của bố mẹ. Tuy nhiên, trong những gia đình bình thường, khi mà trẻ em đi làm không phải vì miếng ăn, việc bố mẹ cho con cái đi làm sớm là chuyện thường ở huyện. Đến nỗi luật ở Úc phải quy định trẻ em được trả lương thấp hơn người trưởng thành. Mục đích chính (theo mình hiểu) là để kéo giảm hiện tượng xã hội này vì chính phủ muốn khuyến khích trẻ dành nhiều thời gian cho chương trình phổ thông hơn.
Mình cũng tin là ở Việt Nam đang ngày càng có ít người u mê như mình ngày xưa. Một phần thì thời buổi thông tin bùng nổ, giới trẻ dễ dàng tiếp cận thông tin đa chiều hơn. Phần khác là sức ép tài chính ngày càng tăng trong xã hội hiện đại khiến bố mẹ dù muốn cũng không thể bảo bọc con cái như xưa được nữa. Những quan sát của mình về vấn đề tài chính cá nhân ở những năm đi học ở nước ngoài, điển hình của một xã hội hiện đại, mình sẽ viết trong phần 2 của “chuyện” này.