Chuyện báo - Phần 2
“Mở hóa” ấn bản khoa học – “Vừng ơi mở ra”, “Mở he hé”, và “Mở toang hoác”
#chuyenseries
(Hình minh họa từ The Economist)
Năm 2019, một tạp chí mở thuộc “dòng họ Nature thuần chủng” là Nature Communications xuất bản khoảng 5,800 bài báo. Một tạp chí mở khác, khá “đình đám” của Springer Nature là Scientific Reports thì xuất bản trên 20,000 bài báo. Nếu lệ phí nộp bài được thu đủ ($5,380 cho Nature Communications [1] và $1,870 cho Scientific Reports [2]), chỉ hai tạp chí này đã mang về doanh số xấp xỉ 68 triệu Trump cho Nhà Xuất bản Springer Nature. Khi tạp chí nghiên cứu đầu tiên được phát hành vào năm 1665 [3], chắc chẳng nhà khoa học nào nghĩ đến một tương lai sôi động đến như thế của thị trường xuất bản học thuật, ngành công nghiệp có tỷ suất sinh lời lên đến 40% [4], tức xấp xỉ các ông lớn công nghệ như Apple.
Trong điều kiện lý tưởng, các ấn bản khoa học nên được xuất bản thông qua các hiệp hội ngành.
Điều này sẽ đảm bảo được tính phi lợi nhuận của khoa học – kể cả ở khâu xuất bản và chuyển tải tri thức đến đại chúng. Thực tế thì sao? Mình không có con số cụ thể, nhưng có lẽ không quá 50% các tạp chí đi theo mô hình này.
Trong ngành Khoa học Trái Đất, có hai hiệp hội lớn nhất là America Geophysical Union (AGU) và European Geosciences Union (EGU). EGU có Nhà Xuất bản (NXB) riêng là Corpernicus Publication (CP), thành lập vào năm 1994 khi phong trào “mở hóa” tri thức khoa học lên cao ở châu Âu. Phí xuất bản của CP thật ra không hề rẻ, cá nhân mình cũng từng “khóc hết nước mắt” để xin tiền đăng bài trên tạp chí Hydrology and Earth System Sciences của EGU (93 Euro/trang cho bản thảo soạn bằng MS Word [5]). Nhưng đó là chi phí cần để trang trải chi phí xuất bản và vận hành của NXB; phần dư ra được dùng vào các hoạt động thúc đẩy sự phát triển của hiệp hội – điều này được công khai tại hội nghị thường niên của EGU. Các tạp chí của AGU thì được xử lý kỹ thuật bởi Wiley, một trong “big-five” của ngành công nghiệp xuất bản học thuật [6]. Tuy nhiên, AGU có cấu trúc quản lý khá hoàn thiện, và lại sở hữu những tạp chí uy tín nhất trong ngành hẹp, nên hiệp hội này ít nhiều có khả năng tác động vào mô hình thu lợi nhuận của Wiley.
Các tạp chí khoa học khác – có hiệp hội/nhóm đứng sau ít quyền lực, hoặc do chính các NXB vì lợi nhuận xây dựng nên – thì động lực thúc đẩy hoạt động của nó là tối đa hóa lợi nhuận.
Và lợi nhuận này đến từ câu thần chú “Vừng ơi mở ra” (mô hình Subscription) – tức là độc giả muốn tiếp cận tri thức khoa học sẽ phải trả phí cho NXB. Giá đọc mỗi bài báo hầu như là cố định. Còn các thương thảo “sỉ” luôn được giấu kín, nên các thư viện, hiệp hội chẳng biết phải trả giá như thế nào. Giá của câu thần chú “Vừng ơi mở ra” do đó được quy định hoàn toàn bởi NXB – những người luôn cho rằng họ đóng góp đáng kể vào những ấn bản khoa học, và xứng đáng với tỷ suất sinh lời 30-40% mỗi năm. Mình từng thắc mắc các tác giả “đang ở đâu” mà không tìm cách điều chỉnh điều này, cho đến khi bài báo đầu tiên của mình được chấp nhận đăng. Điều đầu tiên mình phải làm là ký thỏa thuận chuyển nhượng quyền khai thác thông tin cho NXB. Người cung cấp sản phẩm (nhà khoa học), do đó hoàn toàn đứng bên ngoài các thỏa thuận giữa NXB và độc giả trong mô hình “Vừng ơi mở ra”.
Sự ra đời của Internet vào những năm 1990 mở ra những thay đổi lớn cho thị trường xuất bản học thuật.
Khi mà ấn bản điện tử ngày càng phổ biến, nhiều học giả đã lạc quan rằng thời điểm các NXB phải dừng “hút máu” cộng đồng khoa học (và độc giả), a.k.a. phong trào “mở hóa” kết quả nghiên cứu khoa học, đã đến [7] nhờ khả năng chia sẻ thông tin của World Wide Web.
Sau ba thập kỷ, ngành công nghiệp xuất bản học thuật vẫn “phát triển bền vững”, vì các NXB thích ứng (và tận dụng) điều kiện mới rất nhanh. Trong khi đó, hầu hết học giả vẫn lệ thuộc nhiều vào các NXB để phát triển sự nghiệp.
Ngành “công nghiệp học thuật toàn cầu” có đặc thù của nó, mà cụ thể là năng lực của học giả được đánh giá khá nhiều thông qua track-record (danh sách xuất bản) của họ.
Muốn xin quỹ nghiên cứu mới? Vui lòng liệt kê những bài báo nổi bật nhất trong 5-năm gần đây. Muốn “lên hạng” trên các thang bậc của các chức danh Giáo sư? Những ấn bản nổi bật nhất, có tầm ảnh hưởng mạnh nhất là một phần không thể thiếu của hồ sơ. Mình to gan cho rằng có dưới 1% các học giả hàng đầu trên thế giới đã đạt được những bước thăng tiến trong sự nghiệp mà không nhờ vào các bài báo xuất bản trên các tạp chí phản biện danh tiếng (The New England Journal of Medicine, Science, Nature hay Lancet thì càng tốt).
Mô hình “Mở he hé” (Hybrid Open Access) là một biện pháp thích ứng của các NXB vì lợi nhuận thực hiện đối với các tạp chí vốn vận hành theo hình thức “Vừng ơi mở ra”. Trong mô hình này, tác giả có quyền miễn trừ câu thần chú bằng cách chi trước chi phí xuất bản, và do đó người đọc có quyền tham khảo tri thức khoa học miễn phí.
Còn mô hình “Mở toang hoác” là chỉ những nơi mà người đọc không phải trả bất cứ chi phí nào.
Điều này có thể được vận hành thông qua những tạp chí chỉ thu chi phí xuất bản ở phía tác giả (Gold Open Access), dù là phi lợi nhuận (ví dụ các tạp chí thuộc EGU) hay vì lợi nhuận (ví dụ Scientific Reports). Những mô hình “Mở toang hoác”, không được hiệp hội nào tài trợ phí xuất bản, và không tốn phí thì bao gồm các database pre-print (xuất bản tiền phản biện; Green Open Access) do các cộng đồng khoa học lập ra [8]; hoặc những trang “web đen khoa học” (Black Open Access) – nơi mọi luật lệ về xuất bản đều bị bỏ qua. Tất nhiên cái gì mà “free” thì chất lượng sẽ không cao bằng. Sẽ rất khó để thuyết phục người khác tin vào năng lực của bạn, nếu toàn bộ ấn phẩm mà bạn có đều nằm trên các preprint archive. Còn "web đen", thì rõ ràng là không nhiều người hoan nghênh [9].
Trong mô hình xuất bản vì lợi nhuận, cho dù là “Mở hờ hờ” hay “Mở toang hoác” thì khoản trả trước mà các tác giả phải chi cho các NXB đều phải bao gồm phần “giá trị thặng dư” được thu về và được chia sẻ cho các nhà đầu tư [10]. Nhiều nhà khoa học rất bất mãn với khoản tăng thêm này, vì khoa học vốn dĩ nên phi lợi nhuận. Những chương trình tẩy chay các NXB vẫn đang diễn ra, nhưng tác động thực sự mình thấy chỉ như muối bỏ bể. Nhìn vào đặc thù của ngành công nghiệp học thuật toàn cầu, có lẽ thị trường xuất bản học thuật sẽ còn sôi động dài dài.
Có lẽ nó chỉ đi vào thoái trào khi bộ não con người có thể được kết nối trực tiếp với nhau mà không phải mất công sức gì.
Để đạt được tương lai viễn tưởng đó, các nhà khoa học trong lĩnh vực công nghệ truyền thông sẽ cần thêm quỹ nghiên cứu. Họ cần thuyết phục những người trao quỹ tin vào năng lực nghiên cứu của họ. Họ cần những ấn bản có tính tác động cao. Họ sẽ tiếp tục trao quyền khai thác thông tin cho những NXB vì lợi nhuận. Họ sẽ tạo ra kinh phí cho các NXB vì lợi nhuận, vốn rất giỏi thích ứng, tiếp tục nghĩ cách kiếm ra lợi nhuận trong môi trường mới.
Có thể các NXB sẽ tài trợ cho nghiên cứu, và độc quyền, công nghệ chia sẻ thông tin trực tiếp giữa não người?
Và một vòng lặp mới lại mở ra.
Ann Arbor,
13/09/2020
====
[1] https://www.nature.com/ncomms/about/article-processing-charges
[2] https://www.nature.com/srep/about/open-access-funding-and-payment
[3] https://en.wikipedia.org/wiki/Academic_publishing
[4] https://journals.plos.org/plosone/article?id=10.1371/journal.pone.0127502
[5] https://publications.copernicus.org/for_authors/article_processing_charges.html
[6] https://www.vocativ.com/culture/science/five-corporations-control-academic-publishing/index.html
[7] https://www.scribd.com/document/292346391/Forbes-Elsevier-1995
[8] https://en.wikipedia.org/wiki/Preprint
[9] https://onlinelibrary.wiley.com/doi/full/10.1002/leap.1116
[10] https://www.ncbi.nlm.nih.gov/books/NBK215726/