Chuyện start-up
Đi “huấn nghiệp” postdoc, mình may mắn gặp một tiền bối rất cởi mở, sẵn lòng chia sẻ những trải nghiệm với nghề của bản thân. Mà tiền bối đến với nghề nghiên cứu cũng muộn, chính xác là sau khi đã làm kỹ sư cho một công ty tư vấn về môi trường suốt tám năm.
Tiền bối kể cũng được giao làm giám đốc kỹ thuật gì gì ấy, nhưng vẫn gọi đùa thời gian này là “tám năm trầm luân,” vì công việc cứ lặp đi lặp lại theo một chu trình khá buồn tẻ. Có lẽ tính cách tiền bối không hợp với industry.
Rẽ ngang sang nghề nghiên cứu, cũng phải sau 15 năm lăn lộn – từ NCS đến postdoc rồi làm nghiên cứu viên cho một cơ quan chính phủ – tiền bối mới “hạ cánh” ở trường Đại học Michigan. Rồi bác ấy tuyển mình về bằng gói hỗ trợ start-up mà trường cấp cho bác ấy.
Là nghiên cứu viên, có lẽ ai cũng thích mô hình các gói hỗ trợ start-up cho GS mới về đội, vốn khá phổ biến ở nhiều trường ĐH nghiên cứu.
Khoản tài trợ lớn hay nhỏ thì tùy vào chất lượng của ứng viên cũng như định hướng và hầu bao của trường, nhưng nó thể hiện tinh thần hỗ trợ từ phía nhà trường đối với những người mới “khởi nghiệp.” Mỗi Giáo sư ở các trường ĐH nghiên cứu thật ra cũng là một “doanh nghiệp khoa học công nghệ” vận hành theo hình thức “hợp danh.” Trong mô hình này, các GS nhận được hỗ trợ chung từ phía nhà trường, bao gồm các thủ tục pháp lý, tài chính, hành chính, và cả gói tài chính start-up để khởi động nhóm nghiên cứu của riêng mình.
Có lần mình hỏi tiền bối sao mà trường “thoáng” vậy, cho bác ấy kinh phí để nuôi cả một postdoc (mình) và nhiều thứ khác nữa. Bác ấy cười “Bé tí ấy mà (peanuts),” rồi giải thích là bác ấy sẽ phải “cày” để “nhà tài trợ” cảm thấy hài lòng về sự phát triển của “doanh nghiệp” do bác ấy lập ra – chứ không thì tiền bối lại phải đi tìm “nhà tài trợ” khác. Chắc tại vậy nên năm 2020 bác ấy phải nộp hết mấy chục cái grant, lần nào gặp mình thì mắt cũng long lanh nói về những “big grant” đang đến hạn nộp…
Mà thật ra, mỗi NCS, nếu có định hướng đi theo con đường academic, cũng phần nào chia sẻ những đặc thù của một start-up.
Khó khăn nhất là giai đoạn một-hai năm đầu tiên, phải đắn đo rất nhiều khi lựa chọn “thị trường”, “phân khúc thị trường”, tự đánh giá về “năng lực”, “vốn” để quyết định phải phát triển “sản phẩm” gì để tiến vào thị trường tiềm năng.
Sau đó là bao nhiêu đầu việc trên trời dưới đất, cũng chẳng biết thứ nào đến trước, thứ nào đến sau. Vài điều có thể liệt kê bao gồm tìm hiểu về tiêu chuẩn kỹ thuật của thị trường, phát triển sản phẩm mẫu, hoàn thiện quy trình sản xuất, kiểm tra chất lượng sản phẩm, tìm kiếm đối tác, kêu gọi đầu tư, marketing, chăm sóc khách hàng, quản lý nguồn nhân lực,…
Có lẽ vì vậy nên nhiều NCS cũng dễ rơi vào một vòng trầm luân khác, với những “ngày quên ngủ, đêm không ăn,” trăn trở cho tương lai của start-up bé xinh của mình…
Ann Arbor, 20/12/2020.