Mình hay dùng từ "khởi nghiệp" khi nói về con đường nghề mà mình chọn. Thật ra chữ "khởi nghiệp" có thể được hiểu theo rất nhiều cách. Không phải vì sự đa nghĩa của từ này trong tiếng Việt, mà là do mỗi người - do trải nghiệm khác nhau - sẽ có một nhận định riêng.
Cá nhân mình khi nói “khởi nghiệp” là đang nghĩ về tinh thần tự chủ, yếu tố mình cho là quan trọng nhất nếu muốn đi lâu, và đi xa, trên con đường nghiên cứu hàn lâm. Cách nghĩ này có lẽ đến từ quá trình quan sát những con người đi trước trong quãng thời gian học nghề.
Gần đây nhất có lẽ là ở UM, khi mình thấy tiền bối và nhiều đồng nghiệp (không phải tất cả) cứ tháng 4 hàng năm thì lại lục tục làm đề xuất giải ngân “kinh phí nghiên cứu hè”.
Có rất nhiều nguyên nhân để họ làm việc này nhưng ta hãy nói về lương cho trực quan. Cách tiếp cận của UM là họ chỉ trả công lao động cho rất nhiều Giáo sư (Assistant Professor, Associate Professor, Professor) trong 9 tháng, với nguồn thu chủ yếu từ các khoản học phí của sinh viên. Cũng cần lưu ý là việc nhận lương có thể chia đều ra 12 lần, nhưng tổng tiền lương chỉ là công lao động của 9 tháng làm việc thôi.
Điều này nghĩa là nhiều Giáo sư ở UM, nếu muốn tăng thêm thu nhập thông qua con đường nghiên cứu hàn lâm, cần tìm quỹ nghiên cứu để trả lương cho chính họ vào những tháng hè. Cá nhân tiền bối mình thì cứ đến tháng 6 lại mừng rỡ “Hè rồi! Nghiên cứu thôi!” vì đã có tiền sẵn trong các tài khoản nghiên cứu. Và cũng vì suốt 9 tháng kia tiền bối dành quá nhiều thời gian cho công việc giảng dạy, và cả viết đề xuất dự án để có tiền nuôi chính mình vào ba tháng hè.
Trong một chiều hướng khác, Giáo sư nào không tìm được quỹ nghiên cứu thì có thể (i) tận hưởng các tháng hè, khi không bị sinh viên đuổi bắt; hoặc (ii) tranh thủ những tháng hè để viết quỹ nghiên cứu, viết báo với kỳ vọng năm sau sẽ có quỹ nghiên cứu trả công cho chính mình trong những tháng hè. Nhóm thứ hai có thể nói là đang “đầu tư” cho tương lai, vì nếu hiểu một cách đơn giản thì công sức họ bỏ ra không được ai trả lương.
Quay trở lại Adelaide, có hai con người, đều rất giỏi, đã hỗ trợ và định hướng cho mình rất nhiều trong quá trình làm NCS. Tuy nhiên, con đường nghề của họ thì lại chẳng giống nhau, và chỉ có một người vươn lên rất nhanh, trở thành Professor (bậc Giáo sư cao nhất ở Adelaide) trong chưa đến 10 năm phấn đấu.
Khác biệt lớn nhất của họ có lẽ nằm ở thời gian đầu của sự nghiệp, khi một người thắng liên tục hai quỹ nghiên cứu lớn nhất của Úc (Discovery và Linkage), còn người kia loay hoay với những hợp đồng có thời hạn, chủ yếu để phục vụ công tác giảng dạy. Việc có quỹ nghiên cứu khiến cho một người được miễn trừ công việc giảng dạy, có kinh phí đi hợp tác nghiên cứu, hội thảo, và trả công cho “Research assistant” để làm mạnh thêm cho profile. Và khi quả cầu tuyết đã lăn, nó sẽ ngày càng lớn.
Đi xa hơn nữa, thời mình bắt đầu bước vào con đường Khí tượng – Thủy văn, mình đã chứng kiến sự nỗ lực không ngừng của một người thầy trong việc tìm kiếm quỹ nghiên cứu. Việc mình nhớ nhất là sự tranh thủ các nguồn tài trợ của thầy để các thành viên trong nhóm có cơ hội tham dự các hội thảo trong và ngoài nước, để xây dựng mạng lưới các mối quan hệ, và quảng bá hình ảnh của nhóm. Những khoản “tái đầu tư” này rồi sẽ quay lại phục vụ cho nhóm, nhưng dưới hình thức của những quỹ nghiên cứu hoặc hợp đồng nghiên cứu mới.
Những quan sát đó khiến mình tin rằng tinh thần "khởi nghiệp" là phẩm chất quan trọng nhất trên con đường lập nghiệp của người làm khoa học.
Một ý tưởng có khả năng làm thay đổi thế giới chỉ thực sự thay đổi được thế giới khi được hiện thực hóa bằng những khoản “đầu tư”. Thường là rất nhiều khoản đầu tư, kéo dài trong một khoảng thời gian dài, hoặc rất dài.
Cũng tương tự như thế, một nhà khoa học muốn tìm kiếm câu trả lời cho những câu hỏi trong chuyên ngành hẹp của họ cũng phải biết cách tìm kiếm được nguồn tài trợ. Sẽ là viễn vông, hoặc cực kỳ hiếm, khi tin rằng sẽ có một tổ chức, cá nhân sẵn sàng chu cấp cho ta mọi thứ để an tâm theo đuổi tầm nhìn dài hạn của mình.
Ai rồi cũng phải dấn thân vào cuộc tìm kiếm quỹ nghiên cứu. Và cả các hợp đồng dịch vụ KHCN để “lấy ngắn nuôi dài”, để duy trì và phát triển nhóm nghiên cứu của mình.
Đây có lẽ là điều mà chẳng nhà khoa học nào thích – bởi chưa ai đi học làm nghiên cứu lại được đào tạo bài bản để có thể làm tốt việc “gọi vốn”. Và cũng vì vậy nên chỉ những người sẵn sàng làm tốt những điều mình không thích mới có thể đi xa, đi lâu, và tận hưởng sự thăng hoa khi được làm những điều mình thích. Nếu không có tinh thần “khởi nghiệp”, làm sao mà vượt qua được những ngày “nếm mật nằm gai” như thế.
Vài ghi chép nhanh nhân ngày Khoa học và Công nghệ Việt Nam.
Long An, ngày 18/05/2021