15. Bài Thơ Đường Có Tựa Dài Nhất Trong Đời Đường

自河南經亂,關內阻飢,兄弟離散,各在一處。因望月有感,聊書所懷,寄上浮樑大兄、於潛七兄、烏江十五兄,兼示符離及下邽弟妹。

TỰ HÀ NAM KINH LOẠN, QUAN NỘI TRỞ CƠ, HUYNH ĐỆ LY TÁN, CÁC TẠI NHẤT XỨ. NHÂN VỌNG NGUYỆT HỮU CẢM, LIÊU THƯ SỞ HOÀI, KÝ THƯỢNG PHÙ LƯƠNG ĐẠI HUYNH, Ư TIỀM THẤT HUYNH, Ô GIANG THẬP NGŨ HUYNH, KIÊM THỊ PHÙ LY CẬP HẠ QUẾ ĐỆ MUỘI. ( 50 chữ )

時難年荒世業空, Thời nạn niên hoang thế nghiệp không,

弟兄羈旅各西東。 Đệ huynh ký lữ các tây đông.

田園寥落干戈後, Điền viên lieu lạc can qua hậu,

骨肉流離道路中。 Cốt nhục lưu ly đạo lộ trung.

弔影分爲千里雁, Điếu ảnh phân vi thiên lý nhạn,

辭根散作九秋蓬。 Tứ căn tán tác cửu thu bồng.

共看明月應垂淚, Cộng khan minh nguyệt ưng thùy lệ,

一夜鄉心五處同。 Nhất dạ hương tâm ngũ xứ đồng !

白居易 Bạch Cư Dị

Từ Hà Nam sau loạn trong Quan Nội, anh em đói kém ly tán mỗi người một nơi. Nhân ngắm trăng mà hoài cảm viết nên những dòng tâm tình nầy gởi lên anh cả ở Phù Lương, anh bảy ở Ư Tiềm, anh mười lăm ở Ô Giang, cùng gởi đến em trai và em gái ở Phù Ly và Hạ Quế. (63 chữ)

*CHÚ THÍCH :

- Tựa của bài thơ có thể viết gọn lại thành VỌNG NGUYỆT HỮU CẢM là : Cảm Xúc Khi Ngắm Trăng.

- Thời Nạn Niên Hoang : Thời buổi hoạn nạn lại nhằm năm mất mùa.

- Thế Nghiệp : Cơ nghiệp của ông cha để lại. Không: là Trống lỏng, Tiêu Tan.

- Ký Lữ : là gởi thân ở nơi đất khách xa nhà.

- Can Qua : Can là cái Mộc, cái Thuẫn để đở. Qua là Giáo Mác để đâm để chém. Nên Can Qua là Đánh nhau, là Chiến tranh. CAN QUA HẬU là Sau Cuộc Chiến, Sau Chiến tranh.

- Lưu Ly : là Lưu lạc phân ly.

- Điếu Ảnh : Tự so sánh hình bóng của mình.

- Từ Căn : Từ biệt căn nguyên, là Rời xa gốc rễ.

- Hương Tâm : là Tấm lòng thương nhớ quê hương.

*NGHĨA BÀI THƠ :

Thời buổi hoạn nạn loạn ly lại nhằm năm mất mùa, cơ nghiệp của cha ông để lại cũng tan hoang. Anh em ly tán kẻ đông người tây mỗi người một nơi. Ruộng vườn sau chiến tranh thì hoang sơ tiêu điều, anh em ruột thịt thì lưu lạc trên đường chạy loạn. Thân nhân như hình với bóng giờ cũng phải phân ly như chim nhạn bay ngoài ngàn dặm, bay tản mác khắp nơi như cỏ bồng khô trong ba tháng mùa thu. Cùng ngắm trăng thu trong sáng mà chắc cũng cùng rơi lệ, cũng trong một đêm nhưng lòng thương nhớ quê hương ở năm nơi chắc cũng giống như nhau mà thôi.

Hoàn cảnh thật giống như sau chiến tranh Việt Nam 1975, gia đình ly tán, anh em cha mẹ vợ chồng con cái kẻ cải tạo, người vượt biên … phân ly thất tán mỗi người một nơi, tha phương cầu thực, định cư rải rác khắp các nơi trên thế giới. Câu “ Nhất dạ hương tâm ngũ xứ đồng “ của Bạch Cư Dị chỉ 5 nơi mà anh em lưu lạc là : Phù Lương, Ư Tiềm, Ô Giang, Phù ly và Hạ Quế; còn bây giờ “ Ngũ Xứ “ của anh em VN trước mắt có thể là : Mỹ, Úc, Pháp, Đức, Canada hay cùng trên nước Mỹ như : Cali, Texas, Phi la, Newyork, Washington DC … Từ đó cho ta thấy rằng, chiến tranh luôn luôn gieo rắc đau thương tang tóc, chết chóc, ly tan cho dân lành, cho dù “ Nó “ đã chấm dứt gần nửa thế kỷ rồi mà những hệ lụy của NÓ mang đến vẫn còn ray rức mãi trong lòng những người tha hương dị quốc !

*DIỄN NÔM :

NGẮM TRĂNG HOÀI CẢM

Thời loạn mất mùa sản nghiệp không,

Anh em tứ tán khắp tây đông.

Ruộng vườn hoang phế sau chinh chiến,

Cốt nhục chia lìa những ngóng trông.

Bốn hướng bay đi như cánh nhạn,

Ba thu phơ phất tựa bồng bông.

Ngắm trăng cùng đổ đôi dòng lệ,

Năm xứ một đêm thổn thức đồng !

Lục bát :

Loạn ly tổ nghiệp tiêu vong,

Anh em thất tán tây đông khắp cùng.

Ruộng vườn hoang phế bỏ không,

Chia lìa cốt nhục hết mong sum vầy.

Bóng hình như nhạn cao bay,

Phất phơ tựa cỏ thu ngoài đồng không.

Ngắm trăng lệ nhỏ đôi dòng,

Một đêm năm xứ chung lòng nhớ quê !

Đỗ Chiêu Đức