Nào Ai Mạc Mặt , Nào Ai Gọi Hồn

Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn

Đỗ C. Đức thân mến,

Tôi có một thắc mắc nhờ giúp:

Trong Chinh Phụ Ngâm của Bà Đoàn thị Điểm dịch, có câu:

"Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn"

"Mạc" có phải một bên bộ thủ và một bên chữ mạc? có nghĩa là sờ... Mạc mặt ở đây nghĩa là "vuốt mắt". Tôi không có font chữ Hán, chữ Nôm nên không tra cứu được. Hay là còn có chữ mạc viết khác nữa, hay mạt (chữ t). Nhờ Đức giúp. Cảm ơn nhiều.

Hạ Vũ

Kính Chị,

Chữ " mạc " mà Chị hỏi trong câu :

Nào ai mạc mặt nào ai gọi hồn

chữ MẠC đó là chữ Nôm có nghĩa là VẼ và là tiếng Việt cổ mà bây giờ đã không còn dùng nữa :

* MẠC 漠 còn có thể viết là 莫, vì là từ Hán Việt, chữ Nôm chỉ Mượn Âm để đọc mà thôi.

MẠC trong câu thơ trên có nghĩa là VẼ, vì căn cứ vào 2 câu chữ Hán của Đặng Trần Côn là :

征 人 貌 誰 丹 青 Chinh nhân mạo, thùy đan thanh ?

死 士 魂 誰 哀 弔 Tử sĩ hồn, thùy ai điếu ?

Có nghĩa :

Diện mạo của chinh nhân ai vẽ nên ?

Hồn của tử sĩ ai thương xót mà phúng điếu ?

* Đan Thanh 丹 青 : Đan là Đan Sa , Chu sa có màu đỏ; Thanh là Thạch Thanh có màu xanh, là 2 loại màu chính ngày xưa dùng để vẽ, nên ĐAN THANH có nghĩa là VẼ. Trong Cung Oán, Ôn Như Hầu tả nàng cung nữ tài hoa với 2 câu :

Câu cẩm tú đàn anh họ Lý,

Nét ĐAN THANH bậc chị chàng Vương.

là Nàng cung nữ thơ giỏi hơn Lý Bạch và VẼ giỏi hơn cả Vương Duy.

Nên...

MẠC trong câu thơ trên có nghĩa là VẼ, hãy xét 4 câu liên tục thì sẽ thấy nghĩa của chữ VẼ rõ ràng hơn :

Hồn tử sĩ gió ù ù thổi,

Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi,

Chinh phu tử sĩ mấy người,

Nào ai MẠC mặt nào ai gọi hồn.

Có nghĩa :

Hồn của những tử sĩ (đã chết) theo gió thổi ù ù, còn...

Mặt của những chinh phu (còn sống) thì trăng soi vòi vọi (vì phải thức đêm gác giặc).

Chinh phu và Tử sĩ có được những người nào được vẽ hình (để vào LĂNG YÊN CÁC để ghi công)khi còn sống và những người nào khi chết đi (tử sĩ) được làm lễ cầu siêu gọi hồn ?

Từ "Nào ai" rồi "Nào ai" được lặp lại như có ý mỉa mai của các chinh phu và tử sĩ : Sống không ai VẼ hình ghi công, chết không ai phúng điếu gọi hồn.

Từ LĂNG YÊN CÁC ở trong nguyên bản chữ Hán của Chinh Phụ Ngâm câu 447 ghi :

凌 煙 閣 兮 秦 叔 寶 Lăng yên các hề Tần Thúc Bảo.

để chỉ :

Tướng Tần Thúc Bảo đời Đường cùng với 23 người khác có công giúp vua Đường Lý Thế Dân lập nên nhà Đường, nên được vua cho họa sĩ vẽ hình của 24 người đem treo ở Lăng Yên Các để ghi nhớ công lao của họ.

Còn ở nguyên bản chữ Hán của Chinh Phụ Ngâm câu 447-448 ghi :

凌 煙 閣兮秦 叔 寶 Lăng yên các hề Tần Thúc Bảo

麒 麟 臺兮霍 嫖 姚 Kỳ Lân đài hề Hoắc Phiêu Diêu

và đã được nữ sĩ Đoàn Thị Điểm diễn nôm một cách tài tình:

Tài so Tần , Hoắc vẹn tuyền

Tên ghi gác khói, tượng truyền Đài Lân.

Còn ...

Về chữ MẠT mà Chị nói là có bộ THỦ 扌một bên còn một bên là chữ MẠT 末 thì có nghĩa :

* MẠT 抹 : là Bôi, Xóa, Trét, Vuốt, Thoa, lau... Như Đồ Mạt 塗抹 : Bôi xóa. Mạt Dược 抹藥 : Bôi thuốc . Mạt Hắc Bản 抹黑板 : Xóa bảng đen. Mạt Nhãn Lệ 抹眼淚 lau nước mắt. Mạt Phấn 抹粉 : Thoa phấn. Mạt Kiểm 抹臉 : là Vuốt Mặt....

Vì phải nói cho có đầu đuôi, nên trả lời hơi lòng vòng, mong Chị thông cảm !

Nay kính,

Đỗ Chiêu Đức