12. Du Sơn Tây Thôn

Sơn cùng thuỷ tận nghi vô lộ, 山窮水盡疑無路,

Liễu ám hoa minh hựu nhất thôn ! 柳暗花明又一村!

Có nghĩa :

Núi đã cùng, nước đã tận, ngỡ là đã cùng đường rồi, không ngờ phía trước lại có ... Liễu xanh om hoa rực rỡ lại đưa ta đến một thôn làng khác nữa !

Câu nầy còn dùng để chỉ : Những việc tưởng đâu đã hết hi vọng rồi, nào ngờ lại mở ra được hướng giải quyết mới còn tốt hơn là cơ hội cũ nữa ! Ta hay đọc thấy câu nầy trong các truyện xưa, nhất là trong các truyện võ hiệp kỳ tình Trung Hoa :

Non cùng nước cạn ngờ vô lối,

Liễu biếc hoa hương lại một thôn !

Thực ra đó là 2 câu Thực trong bài Du Sơn Tây Thôn của Lục Du đời Tống. Hai câu thơ đó nguyên là :

山重水復疑無路, Sơn trùng thuỷ phục nghi vô lộ,

柳暗花明又一村。 Liễu ám hoa minh hựu nhất thôn.

Nhưng trong THIÊN GIA THI 千家詩 đã chép sai " Sơn Trùng Thủy Phục 山重水復 " thành " Sơn Cùng Thủy Tận 山窮水盡 " là câu nói quen miệng của dân gian. Hai cách nói nầy khác nhau rất xa, nếu ta phân tích theo văn chương, còn đối với giới bình dân thì cho là " Ý nghĩa của NÓ cũng tương đương với nhau " mà thôi !

* SƠN TRÙNG THUỶ PHỤC 山 重 水 復 : SƠN TRÙNG là Núi trùng trùng điệp điệp, hết núi nầy đến núi khác, nên ở xa nhìn thì thấy toàn núi là núi. THỦY PHỤC là Hết dòng nước nầy đến dòng nước khác, nên nhìn thấy toàn nước là nước.

Vì NÚI và NƯỚC trùng phục ở trước mặt, cho nên mới NGHI VÔ LỘ 疑 無 路 : là " Ngỡ là đã hết đường đi rồi ". Nên mở ra câu sau rất thú vị không ngờ là :

Liễu ám hoa minh hựu nhất thôn ! 柳暗花明又一村!

Còn nếu là ...

* SƠN CÙNG THỦY TẬN 山窮水盡 : là Núi đã Cùng đường rồi, Nước cũng đã tận cùng rồi, là ở nơi Cuối Đất Cùng Trời rồi, thì đâu có NGHI VÔ LỘ nữa, mà là CHUNG VÔ LỘ 終無路 là Rốt cuộc đã " Hết Đường Đi Thật rồi !" thì làm sao còn có câu sau là : Liễu ám hoa minh hựu nhất thôn 柳暗花明又一村 cho được !

Bây giờ thì ta hãy đọc toàn bài thơ của bài Du Sơn Tây Thôn nhé :

遊 山 西 村 Du Sơn Tây Thôn

莫 笑 農 家 臘 酒 渾, Mạc tiếu nông gia lạp tửu hồn,

豐 年 留 客 足 雞 豚。 Phong niên lưu khách túc kê đồn

山 重 水 復 疑 無 路, Sơn trùng thuỷ phúc nghi vô lộ

柳 暗 花 明 又 一 村。 Liễu ám hoa minh hựu nhất thôn

簫 鼓 追 隨 春 社 近, Tiêu cổ truy tuỳ xuân xã cận

衣 冠 簡 樸 古 風 存。 Y quan giản phác cổ phong tồn

從 今 若 許 閑 乘 月, Tòng kim nhược hứa nhàn thừa nguyệt

拄 杖 無 時 夜 叩 門。 Trụ trượng vô thì dạ khấu môn.

陸 游 Lục Du

CHÚ THÍCH :

* LẠP TỬU : Lạp là Tháng Mười Hai Âm Lịch, ta đọc trại thành Thánh CHẠP, nên Lạp Tửu là rượu của tháng Chạp, rượu được ủ để uống vào dịp Tết Âm Lịch.

* PHONG NIÊN 豐 年 : là Năm Được Mùa.

* KÊ ĐỒN : Kê là Gà, Đồn là Heo.

* XUÂN XÃ 春 社 : là Ngày Mậu Nhựt thứ 5 sau tiết Lập Xuân làm ngày XUÂN XÃ để cúng tế Thần Làng, như ta cúng Đình Làng vậy, để cầu cho sang năm lại được trúng mùa. Vì thế mà có thổi tiêu đánh trống ...

* 從 今 若 許 閑 乘 月 Tòng kim nhược hứa nhàn thừa nguyệt : là Từ nay về sau nếu như có rảnh rổi thì hay thừa lúc trăng sáng ...

* 拄 杖 無 時 夜 叩 門 Trụ trượng vô thì dạ khấu môn : là Hãy chống gậy mà đến gõ cửa nhà ta bất cứ lúc nào trong đêm ( cũng hổng sao !). VÔ THÌ : là Bất cứ lúc nào.

NGHĨA BÀI THƠ :

Dạo Chơi Thôn Xóm Núi Tây

Xin đừng cười chê thứ rượu tế lễ không được trong của nhà nông trong tháng Chạp. Năm nay được mùa, nên giữ khách lại, đủ cả heo gà để đãi khách. Đừng vì núi liền với núi sông liền với sông mà ngỡ rằng đã không còn đường để đi tới, vì thấp thoáng trong bóng râm rặng liễu và khóm hoa tươi đẹp rực rỡ phía trước sẽ lại mở ra một thôn làng mới. Trống tiêu như giục giã vì ngày tế lễ đầu xuân đang gần kề. Áo mũ giản dị nhưng vẫn theo tục lệ cũ còn giữ lại. Từ nay về sau nếu như có rảnh rỗi thì cứ thừa lúc trăng sáng ... Hãy chống gậy mà đến gõ cửa nhà ta bất cứ lúc nào trong đêm ( cũng hổng sao, vì ta luôn luôn sẳn sàng đón tiếp ! )

Đây là cảnh nông dân ăn Tết ở Tây Thôn là một làng miền núi của một năm được mùa, chất phác chân thật mà nhiệt tình của đời sống thôn dã sau một năm cày sâu cuốc bẫm.

DIỄN NÔM :

DẠO NÚI XÓM TÂY

Thôn dã chớ cười rượu nhạt phèo,

Cuối năm đãi khách sẳn gà heo.

Núi liền sông nước ngờ vô lối,

Liễu rũ đường hoa đến xóm nghèo.

Tiêu trống rộn ràng Xuân Xã đến,

Áo xiêm giản dị cổ phong theo.

Từ nay nếu rảnh đêm trăng sáng,

Gõ cửa cùng vui gậy khẳng kheo.

Lục bát :

Chớ cười rượu lễ nhạt phèo,

Được mùa đãi khách gà heo sẳn sàng.

Non liền nước ngỡ hết đàng,

Hoa chào liễu đón thôn làng lại sang.

Trống tiêu xuân xã rộn ràng,

Tục xưa áo mão nghiêm trang chỉnh tề.

Từ nay trăng sáng đi về,

Thăm nhau gõ cửa chẳng nề đêm thâu.

Đỗ Chiêu Đức

Lục Du 陸 游 (1125─1210), tự là Vụ Quan 務觀, hiệu là Phóng Ông 放翁, là nhà thơ rất nổi tiếng thời Nam Tống. Hoạn lộ thăng trầm, tình duyên trắc trở. Ông chủ trương kháng Kim đến cùng, chống đối lại với phái hòa Kim, vì thế mà bị bãi quan lúc mới có 42 tuổi, nên có nhiều bài thơ mang tâm trạng ưu thời mẫn thế như Đỗ Phủ hay tình cảm phóng túng lãng mạn như Lý Bạch. Ông có bài Từ "Vịnh Mai" rất sâu sắc, tỏ chí khí quật cường. Du Sơn Tây Thôn là một trong những bài thơ hay để đời của ông trong số 9300 bài vừa từ vừa thơ mà ông còn để lại.

Đỗ Chiêu Đức