10. Văn Quyên

1. Nguyên Tác chữ Hán cổ của bài thơ :

聞䳌 VĂN QUYÊN

明·方孝孺 Minh : Phương Hiếu Nhụ

不如歸去, Bất như quy khứ,

不如歸去 ! Bất như quy khứ !

一聲動我愁, Nhất thanh động ngã sầu,

二聲傷我慮。 Nhị thanh thương ngã lự.

三聲思逐白雲飛, Tam thanh tư trục bạch vân phi,

四聲夣繞荆花樹。 Tứ thanh mộng hiểu kinh hoa thụ.

五聲落月照踈櫺, Ngũ thanh lạc nguyệt chiếu sơ linh,

想見當年弄機杼。 Tưởng kiến đương niên lộng cơ trữ.

六聲泣血濺花枝, Lục thanh khấp huyết tiễn hoa chi,

恐汚堦前蘭茁紫。 Khủng ô giai tiền lan truất tử.

七八九聲不忍聞, Thất bát cửu thanh bất nhẫn văn,

起坐無言淚如雨。 Tọa khởi vô ngôn lệ như vũ.

憶昔在家未逺遊, Ức tích tại gia vị viễn du,

毎聽䳌聲無點愁。 Mỗi thính quyên thanh vô điểm sầu.

今日身在金陵上, Kim nhật than tại Kim Lăng thượng,

始信䳌聲能白頭 ! Thủy tín quyên thanh năng bạch đầu !

2. CHÚ THÍCH :

* Phương Hiếu Nhụ 方孝孺 ( 1357-1402 ), tự là Hi Trực, Hi Cổ. Người huyện Ninh Hải tỉnh Chiết Giang ( nay là TP Ninh Ba tỉnh Chiết Giang ). Ông là một nhà thơ, nhà tư tưởng, nhà văn học của đời Minh. Thục Hiến Vương Chu Xuân gọi ông là Chánh Học, nên người đời xưng ông là Chánh Học Tiên Sinh. Sau vì tham gia tổ chức Tiểu Phan, nên sau Tĩnh Nạn chi biến, không hợp tác với Minh Thành Tổ Chu Đệ, bị Đệ tru di thập tộc.

Họa ảnh và Tượng của Phương Hiếu Nhụ

* Văn Quyên 聞䳌 : là nghe tiếng chim quyên kêu. Chim Quyên người Miền Nam gọi là Con Cuốc, miền Bắc gọi là Con Quấc.

* Bất như 不如 : Không phải là " Không bằng ". Ở đây có nghĩa là Thôi thì ..., Thôi hãy ...

* Kinh Hoa Thụ 荆花樹 : Một loại cây có gai trổ hoa đẹp như Hoa Giấy của ta, thường được trồng trước sân nhà, nên tượng trưng cho Cái Nhà , cho gia đình.

* Sơ Linh 踈櫺 : là Cái mái hiên che ngoài song cửa sổ.

* Cơ Trữ 機杼 : là Cái Khung cửi để dệt vải.

* Khấp huyết tiễn hoa chi 泣血濺花枝 : Nước mắt khóc thành máu tưới lên các nhánh hoa.

* Vô Điểm Sầu 無點愁 : là Không một chút ưu sầu nào cả.

* Thủy tín 始信 : Mới tin rằng ...

3. NGHĨA BÀI THƠ :

Nghe tiếng cuốc kêu

Về đi thôi, hãy về đi thôi ! Cuốc kêu một tiếng đã khơi động mối sầu của ta, kêu hai tiếng lại đánh động niềm ưu tư của ta, kêu ba tiếng làm cho sự nhớ thương của ta bay theo làn mây trắng, kêu bốn tiếng thì mộng hồn của ta đã vờn quanh cây Tử kinh hoa trước sân nhà rồi, kêu năm tiếng thì bóng nguyệt đã mờ ngoài song cửa sổ, nhớ đến ai năm nào còn ngồi dệt cửi bên song. Sáu tiếng cuốc kêu thì máu đã vãi khắp các cành hoa, e rằng đã làm hoen ố đi cành phong lan tím trước thềm. Bảy tám chín tiếng tiếp theo ta đã không đành lòng nghe nữa, ngồi bật dậy không nói năng chi mà lệ nhỏ như mưa. Nhớ lại những năm xưa còn ở nhà chưa lê gót lãng du, mỗi lần nghe cuốc kêu ta không chút âu sầu nào cả. Hôm nay thì thân ta đang ở tại Kim Lăng, ta mới tin rằng tiếng cuốc kêu dễ làm cho người ta trở thành đầu bạc !

Đọc bài thơ trên làm cho ta nhớ đến Tam Nguyên Yên Đỗ với :

Khoắc khoải sầu đưa giọng lửng lơ ...

Ấy hồn Thục Đế thác bao giờ ?...

và ...

Năm canh máu chảy đêm hè vắng ...

với ...

Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ !

nên dễ ...

Giục khách giang hồ dạ ngẩn ngơ !

Tiếng cuốc kêu đêm qủa rất dễ đánh động lòng người ! Chưa đi mưa chưa thấy lạnh, chưa xa nhà chưa thấy nhớ quê, như cụ Tiên Điền đã từng trải :

Đoạn trường ai có qua cầu mới hay !

4. DIỄN NÔM :

Nghe Cuốc Kêu

Về đi thôi, hãy về đi thôi !

Một tiếng cuốc kêu đã sầu rồi,

Hai tiếng thương tâm ba tiếng nhớ,

Lòng ta đã theo với mây trời.

Bốn tiếng đến sân hoa tử kính,

Trăng tà năm tiếng trước song rơi.

Dưới hiên bóng nguyệt xế rồi,

Nhớ người năm cũ bên trời đưa thoi.

Sáu tiếng quyên mửa máu rồi,

Hoen cành lan tím chơi vơi trước thềm.

Bảy tám rồi chín tiếng liền,

Bật ngồi rơi lệ im lìm như mưa.

Quê nhà nhớ những ngày xưa,

Nghe quyên đêm vắng lòng chưa thấy buồn.

Nay Kim Lăng vạn dặm đường,

Mới hay quyên hót sầu thương bạc đầu !

Đỗ Chiêu Đức