Nhờ sự quá độ, các bác sĩ đều giàu sụ.
PUBLILIUS SYRUS
Sau những đêm chè chén say sưa, ta sẽ cảm thấy khá là mệt, đôi khi còn bị dị ứng với âm thanh, ánh sáng, thức ăn, và chán ghét mọi giao tiếp xã hội. Đó là những quả báo của sự quá độ. Nhiều thứ trên đời hàm chứa trong bản chất của chúng sự gian trá, nhưng đặc biệt gian trá là rượu và tính trác táng. Chúng như hai con ngựa điên phi mãi không dừng mang ta đi càng lúc càng xa. Đó là điểm mấu chốt của sự quá độ: nó xảy ra khi nó đã xảy ra rồi. William Garrison nói: "Từ khởi thủy của thế giới, không có một bạo chúa nào bằng sự quá độ, và không nô lệ nào bị đối xử tàn tệ như những nô lệ của sự quá độ".
Có một trường phái tư tưởng tán thành sự quá độ bởi giá trị giáo dục của nó. Blake nói: "Con đường của sự quá độ dẫn đến cung điện của sự thông thái". Sự quá độ không chỉ ngập tràn phấn khích trong chính nó, mà nó còn có tác dụng ngăn chặn sự chừng mực trở thành một thói quen. Thật là đáng buồn nếu không bao giờ vượt quá các ranh giới để ngắm nghía thế giới từ một góc nhìn khác. Ta biết gì về sự điều độ nếu điều độ là thứ duy nhất ta biết? Không quá nghịch lý khi khẳng định rằng sự quá độ có chừng mực giúp ta mở rộng nhân sinh quan, và còn có tác dụng tiêu giải, xả trôi những lề thói rập khuôn dồn ứ làm cho tri giác ta bị tắc nghẽn. Tôi nói "sự quá độ có chừng mực" không có nghĩa là uống thêm nửa ly so với tửu lượng bình thường. Tôi muốn nói là thỉnh thoảng cũng nên say sưa bí tỉ, nhưng đừng có rượu chè mỗi đêm.
Cũng có những cách nhìn tối tăm hơn về sự quá độ. Christopher Fry đã lưu ý xác đáng một sự thật sâu sắc rằng "thế giới cho ta sự hưởng thụ, chứ không phải sự trọn vẹn". Tất cả các phương tiện của sự quá độ làm cho ta đánh mất lý trí. Bài học lớn nhất mà chúng dạy ta là giá trị của sự thiếu vắng chúng. Người ta khao khát sở hữu những đồ quý giá, và đam mê những mức độ tột đỉnh trong trải nghiệm. Hai ảo tưởng này có thể đạt được khi dùng chất gây nghiện. Nhưng ảo tưởng dẫn người ta đi ngược lại với thực tế mà người ta mong muốn. Ai cũng có thể dùng chất gây nghiện để tạo ra một ảo mộng dễ dãi thay vì phải kiên trì chịu đựng khó khăn và rủi ro để đạt được thực tế mà họ mong muốn. Ai từng trải nghiệm thực tế đều biết rằng thực tế tốt hơn nhiều so với ảo mộng giả tạo. Nghe thì có vẻ như là một giáo điều của giai cấp tinh hoa, nhưng sự thật đúng như vậy.
Epicurus dạy rằng khoái lạc là điều thiện lành nhất, đau đớn là điều xấu xa nhất. Mẫu mực giáo lý của ông tóm gọn lại là cần phải theo đuổi khoái lạc và tránh xa đau đớn. Vì vậy tên ông là gốc của một tính từ trong tiếng Anh "Epicurean" để chỉ những người yêu thích một cuộc sống hưởng thụ và thường hay quá độ. Vì vậy chắc nhiều người sẽ ngạc nhiên khi biết Epicurus chỉ toàn uống nước lã và còn bảo rằng khoái lạc cao nhất của cuộc sống là bàn luật về triết học cùng với bạn bè dưới bóng cây. Tuy vậy, Epicurus không những thấu hiểu giá trị của sự quá độ, mà còn tường tận những nguồn căn thú vị của nó. Ông viết: "Sự quá độ chẳng có gì sai trái, nếu những thứ tạo ra khoái lạc từ sự quá độ có thể xua tan sự đáng sợ của cái chết, nỗi đau, và cho ta đạt được đỉnh điểm của dục vọng". Thật khổ cho Epicurus, vì những cái tưởng như là niềm khoái lạc lại có tác dụng ngược lại.
Ngạn ngữ Pháp có câu: "Chỉ chai rượu đầu tiên là đắt tiền". Trong câu này là toàn bộ hiểu biết về sự quá độ mà người ta cần, hoặc có lẽ – sau một đêm bê tha bí tỉ – sẵn sàng chấp nhận.
Người ta có thể quá độ theo nhiều cách, nhưng khái niệm này thường được dùng cho việc sử dụng rượu bia hoặc các chất kích thích. Chẳng lạ gì khi người ta kỷ niệm những sự kiện quan trọng bằng cách say xỉn bí tỉ, để tạo ra những sự tay đổi tạm thời nhưng sâu sắc trong bản thể thông thường, và điều này phổ biến trong suốt lịch sử. Các cộng đồng dân cư trong lịch sử cũng như hiện tại xem việc say xỉn như một cách để giao tiếp với chứa, và là cách để bộc lộ bản thân với người khác và với chính mình. Nó cho con người một sự giải phóng tạm thời khỏi chính bản thân mình, và khỏi những miễn cưỡng thường nhật của cuộc sống. Quả thật, tầm quan trọng của những "kỳ nghỉ đạo đức" đã được chấp nhận rộng rãi đến mức tất cả những hệ thống tôn giáo đều có những ngày lễ lạc và những mùa chè chén say sưa, thậm chí còn cho phép xã hội được đảo lộn trong một ngày, với nhà vua phục vụ gã hề, như trong Lễ Thánh Hỗn loạn.
Rượu không phải là cánh cửa duy nhất dẫn ta đến với thánh thần hay sự tự giải phóng. Những dạng cơ bản nhất của chất gây nghiện đã quen thuộc với loài người từ rất lâu rồi, và những tính chất đặc biệt của chúng tạo cho chúng một vai trò trung tâm và được trân trọng trong cuộc sống cộng đồng. Những hóa chất có tính năng tạo ra những biến đổi trong ta như vậy thuộc vào cùng một dược điển cổ xưa với các loại thuốc. Đến khi những tôn giáo khổ hạnh bắt đầu kinh sợ sức mạnh hỗn loạn của chúng, những người sản xuất chúng bị vu vạ cho là ma quỷ, phù thủy, yêu tinh và những họ hàng của quỷ dữ. Khi các cộng đồng phát triển trở nên đa dạng và phức tạp hơn, nỗ lực kiểm soát các chất gây nghiện cũng phát triển theo, với lý do chủ yếu là chúng làm cho con người trở nên khó bảo, khó cai trị.
Chất gây nghiện là một hóa chất đầu độc cơ thể con người, và bằng cách đó nó làm biến đổi các trạng thái cảm giác và nhận thức. Bộ não tự vệ trước sự tấn công của các loại hóa chất bằng cách tạo ra một "lá chắn máu-não", nhưng những chất ngay nghiện có thể thâm nhập vào lá chắn này, rồi phá rối hỗn hợp hóa học tinh vi của bộ não vào phá hoại các chức năng bình thường của nó. Một cái hay của rượu là tính công hiệu của nó tỷ lệ thuận với khối lượng; một ít rượu có tác dụng như chất bôi trơn xã hội, giúp mọi người thư giãn và gần gũi nhau hơn. Nhưng nếu một tài xế uống say bí tỉ thì sẽ tạo ra những thảm họa sau tay lái. Người uống nhiều rượu sẽ mất khả năng kiểm soát cơ bắp và khả năng kiềm chế; và uống quá nhiều rượu có thể gây tử vong. Anachrsis viết: "Cây nho có ba quả: sự hoan lạc, sự đầu độc, và sự ghê tởm".
Ở cái thời chưa có xe cộ và những kẻ say xin cầm lái giết người như bây giờ, người ta phê phán rượu bia bởi vì nó làm mất đi lý trí. Ngạn ngữ Đan Mạch có câu: "Khi tỉnh giấu trong tim, khi say nói ra miệng". Người ta cũng phê phán việc say xỉn thường xuyên vì nó hủy diệt đời sống gia đình và sức khỏe cá nhân. Trong quá khứ, sự lệ thuộc vào rượu bia được xem là một sự suy đồi đạo đức của cá nhân. Nhưng ngày nay, ta nhận ra rằng nó là một vấn đề xã hội và y tế. So với các chất gây nghiện khác, bia rượu có vai trò trung tâm hơn nhiều trong đời sống, và vai trò đó đã giúp nó thoát khỏi tất cả những nỗ lực cấm đoán, điển hình là đạo luật cấm bia rượu 1920-1933 ở Mỹ, với những mất mát khổng lồ. Có người nói bia rượu cho thấy giới hạn của quyền lực cai trị.
Hiển nhiên nó còn đánh dấu giới hạn của sự tự kiềm chế. Quý ông hiền triết Dooley của xứ Dunne từng nói: "Uống rượu không bao giờ làm ai tốt hơn, nhưng nó làm cho nhiều người nghĩ mình tốt hơn". Nhận xét này có tính khái quát. Cũng chính quý ông Dooley khẳng định rằng nhiều cặp đôi sẽ chẳng bao giờ đến trước bệ thánh để tuyên thệ chung thân nếu như không vì một lần xỉn say lỡ làng. Chắc Euripides cũng nghĩ như vậy khi nói: "Người khôn ngoan ở nhà khi say xỉn".
Nhưng những quan ngại này chẳng ảnh hưởng gì mấy đến những kẻ ham tiệc tùng và chè chén say sưa. Những kẻ này sẽ ưa thích quan điểm của Công tước Byron hơn: "Đàn ông biết điều thì phải say, bởi vì say là sướng nhất trên đời". Ai có thể không đồng ý cho được – nếu ông công tước có ý nói say vì nghệ thuật, văn chương, âm nhạc và tình yêu?
Phản Chiếu dịch.