Cái chết không như người ta nghĩ, và may mắn hơn.
WHITMAN
Nếu nhìn nhận bằng thực tế thay vì bằng lòng khiếp sợ hoặc ham muốn, thì cái chết là một quá trình tự nhiên, hai mặt của nó là sự chấm dứt các chức năng của cơ thể và ý thức, theo sau bằng sự phân rã vật lý của cái xác. Chấm dứt chức năng xảy ra và phân rã vật lý bắt đầu cùng tại thời điểm chết. Nhưng thời điểm đó chính xác là khi nào lại là một vấn đề gây tranh cãi. Vấn đề này khá quan trọng trong việc định nghĩa cái chết, bởi vì hiện nay y học có thể duy trì được một số chức năng sinh lý theo cách nhân tạo. Người ta thường nhất trí rằng thời điểm quyết định đó được đánh dấu bằng cái chết của não bộ, bởi vì nó chấm dứt hoạt động thần kinh và không thể đảo ngược.
Sau sự chấm dứt chức năng rồi đến sự chuyển hóa vật lý, còn lại chính là phần tiếp nối của sự sống. Điều này nói ra có vẻ sáo rỗng, nhưng lại rất quan trọng: cái chết và sự phân hủy phục tùng sự sống. Lá rụng năm nay biến thành mùn đất nuôi dưỡng hạt giống năm sau, như thể mùa thu chết đi và biến đổi để mùa xuân lại tới. Theo đó, cái chết là điều kiện cần cho sự sống và là một nửa giai điệu cuộc sống.
Tuy nhiên, cái chết của con người khác biệt một cách cốt yếu so với cái chết của những thứ khác. Hầu hết con người có khả năng tự nhận thức. Cái chết đối với các sinh vật tự nhận thức là mất đi hai tài sản tối thượng: khả năng nhận thức và khả năng tự chủ hành động. Thật ra thì không hẳn là con người mong ước được sống bất tử trong thế giới này. Vở kịch Methuselah của Shaw cho thấy rằng con người khó mà chịu đựng nổi một sự sống vĩnh hằng. Vấn đề là cái chết thường đến quá sớm, trước khi ta kịp cạn kiệt hứng thú đối với thế giới này và đối với những người yêu mến quanh ta.
Từ góc nhìn chủ thể, chết không khác gì so với không được sinh ra, hay ngủ mà không mơ, và vậy thì không có gì đáng sợ. Cái đáng sợ là viễn cảnh lơ lửng của cái chết. Nhưng chết là một hành động của sự sống, một điều mà chỉ có những cái gì sống mới làm được. Cũng như những hành động ăn uống, đi đứng, cảm giác… hành động chết có thể sướng hoặc là khổ. Nhưng trạng thái chết không phải thứ mà ta có thể trải nghiệm được. Ta trải nghiệm cái chết chỉ khi mất đi người thân, và đó là một trải nghiệm thương đau. Như vậy, cái chết của chính ta không phải là một phần trải nghiệm của cá nhân ta. Mỗi chúng ta chỉ trải nghiệm sự sống, mà hành động chết là một phần của sự sống đó. Theo nghĩa này, từ góc nhìn của chủ thể, ta không chết.
Hoàng đế La Mã Marcus Aurelius, một nhà triết học Stoic, đã nói trong cuốn sách "Thiền" của ông ta rằng khi chết, ta mất đi chỉ là khoảnh khắc hiện tại, bởi vì quá khứ đã không còn mà tương lai thì chưa đến. Vậy thì để tự an ủi mình, ta chỉ việc nhìn quanh và hỏi: "Khoảnh khắc hiện tại này có đáng để níu giữ hay không?" Nhưng Aurelius nói vậy là sai. Mỗi chúng ta là một tập hợp của ký ức và hy vọng. Hiện tại là nơi quá khứ và tương lai gặp gỡ trong trạng thái phát triển hoặc kiệt quệ, trong chiến thắng hoặc trong khốn cùng: mỗi một trạng thái này và nhiều trạng thái khác được định nghĩa bởi mối quan hệ từ quá khứ đã qua đến những dự định tương lai chưa tới. Chúng ta là những những câu chuyện sống. Ta thiết tha với phần tiếp theo của câu chuyện. Bởi vậy, dù là cái chết của ai đó ta yêu, hay là cái chết làm ta biến mất khỏi câu chuyện của chính ta, cũng đều là thảm họa.
Ngược lại, đối với những người mong muốn được chết, cái hỗn hợp hiện tại của quá khứ và tương lai này có một hình dạng đặc biệt, méo mó và thống khổ. Có một ngưỡng tâm lý mà đối với họ, chương tiếp theo của câu chuyện phải là chương cuối.
Đa số các tôn giáo khẳng định rằng có một cuộc sống sau cái chết. Một số tôn giáo dạy rằng cuộc sống sau khi chết bắt đầu bằng một phán quyết mang đến sự trừng phạt hoặc tưởng thưởng. Những quan niệm này rất hữu ích cho việc kiểm soát người sống. Chúng giúp khích lệ tinh thần của một vài người, và làm khiếp đảm những người khác. Cái chết trở thành một vương quốc xa lạ cai trị bởi những thế lực ghê gớm. Ta rồi sẽ phải đến mà lại không biết gì về vương quốc đó. Đôi khi, một kẻ mộ đạo càng sùng tín thì lại càng khiếp sợ cái chết.
Plato nói rằng trong một đất nước lý tưởng, ta nên cổ vũ niềm tin vào một cuộc sống sung sướng sau cái chết, để cho các công dân của đất nước đó không sợ chết nữa và như vậy sẽ trở thành những chiến binh dũng cảm. Nhiều giáo phái cuồng tín cũng có quan điểm này. Ngay cả những tôn giáo đứng đắn đôi khi cũng mang tính quân phiệt. Một số tôn giáo thậm chí còn hứa hẹn rằng cái chết trên chiến trường sẽ dẫn lối thẳng tới thiên đường. Quan niệm mê tín dị đoan về cái chết như thế này rất hữu ích đối với giới tu sĩ và những kẻ bạo chúa độc tài.
Trên quan điểm của chủ nghĩa tự nhiên, trạng thái chết giống hệt với không được sinh ra. Vì vậy, trong bản thân cái chết không có gì là tốt hay xấu. Mà chính là những gì mà cái chết tước đoạt của ta làm cho cái chết tốt hoặc xấu. Nếu nó tước đoạt từ ta những cơn đau đớn kinh niên mà ta không thể chịu đựng nổi, nó là tốt; nếu nó lấy mất của ta cơ hội, hy vọng, mối liên kết với những người thân yêu, nó là xấu. Có người lý luận rằng cái chết của bản thân một người không bao giờ là xấu, bởi vì người đó khi đã chết thì không thể nhận thức được sự mất mát của chính mình. Không phải là hiện thực của sự mất mát, mà là cái viễn cảnh sẽ bị mất mát mới là xấu. Theo đó, cái chết lại là một vấn đề của riêng người sống mà thôi. Do đó có thể giải quyết nỗi sợ cái chết bằng cách chấp nhận rằng nó là một chuyện hiển nhiên, và sau đó lờ nó đi. Như vậy sẽ không phải chịu số phận của một kẻ hèn nhát cứ mãi hãi hùng về cái chết và thế là phải chết đi chết lại hàng ngàn lần trong tư tưởng. Spinoza viết rằng "Một người sáng suốt thiền về sự sống, chứ không thiền về cái chết".
Vấn đề căn bản là làm sao để đối mặt với cái chết của những người khác. Ta đau buồn trước sự ra đi của những người đã làm cho cuộc sống của ta có ý nghĩa. Quá trình chữa lành và hồi phục thường kéo dài khoảng một đến ba năm, mà trong nhiều cộng đồng xã hội được gọi là thời gian để tang. Nhưng thế giới thì sẽ không bao giờ toàn vẹn trở lại sau khi mất đi người thân yêu. Ta không thể vượt qua những mất mát, ta chỉ đơn thuần là học cách sống chung với chúng.
Hai thực tế có thể an ủi ta đôi phần. Đó là người chết đã từng sống, và đó là ta đã từng yêu mến họ và than khóc cho sự ra đi của họ. Hai thực tế này là một phần không thể chối bỏ của lịch sử vũ trụ. Sự hiện diện của những người đã từng sống không thể bị xóa bỏ khỏi thời gian. Như vậy là rốt cuộc cũng có một dạng bất tử nhất định.
Dù vậy, liệu bao nhiêu người trong chúng ta có thể cảm thấy được vỗ về bởi những thực tế này? Ta không giỏi đối mặt với cái chết, đặc biệt là trong thời đại chủ nghĩa vật chất hiện nay, với sự vờ vĩnh rằng ta sẽ sống được rất lâu và rằng suối nguồn của hạnh phúc là sức mạnh của đồng tiền. Ít ai đối mặt thẳng thắn với cái chết, hoặc nhận thức rõ ràng bản chất của nó. Đa số con người mặc định rằng chết là xấu. Họ tránh nghĩ về nó, và họ thậm chí không cho phép những ai đang phải chịu những đau đớn khủng khiếp, nếu được lựa chọn, chấp nhận vòng tay nhân từ của thần chết.
Thế là ta trốn chạy cái chết, và ta giấu biệt cái chết đi, cho đến giây phút cuối cùng, hoặc đến khi ta phải đối mặt với cái chết của người khác. Trừ khi ta có niềm tin tôn giáo theo kiểu thú tính mà nhân vật Levin của Tolstoy ngưỡng mộ trong những đám nông nô của lão, ta khó mà tìm được niềm an ủi từ những dạng thức luận khô khan và quái dị về cách đối mặt với cái chết. Điều này có thể khác đi nếu ta cẩn thận suy nghĩ về cái chết và những ý nghĩa của nó, để tự mình vẽ ra hình ảnh chân thật của cái chết như là hiển nhiên vĩ đại nhất của sự sống. Ta sẽ thấy được những khuôn mặt khác nhau của cái chết, không phải khuôn mặt nào cũng dễ thương, nhưng không đến nỗi quá đáng sợ nếu ta có đủ can đảm để nhìn.
So với tổ tiên, chúng ta nhìn nhận cái chết theo cách khó khăn và xa lạ hơn nhiều. Trong những thời đại trước, cái chết thường phổ biến, hiện hữu và quen thuộc hơn hầu hết những lạc thú của cuộc sống. Cái chết ngồi trên mọi bàn ăn, cái chết có trong mỗi bước chân và hơi thở. Đó là một thế giới hoàn toàn khác. Chắc hẳn nó đã tạo ra cho tôn giáo một sức mạnh đáng sợ, như là chỗ dựa duy nhất cho những phận đời mong manh.
Không gì chết bằng cây hoa clematis trong mùa đông. Nhưng khi cơn gió tháng ba tràn vào vườn xuân, những ngón tay dài xanh biếc nở ra từ những nhánh thân héo khô, vươn lên bám vào cuộc sống. Chắc hẳn những quan sát bình dị về vòng lặp suy thoái rồi trỗi dậy của thiên nhiên đã mang đến nguồn hy vọng cho loài người từ thuở ban sơ, khi phải đối mặt với sự bi thương và nỗi khiếp đảm của cái chết. Kết quả là những chuyện hồi sinh nhan nhản trong tôn giáo và thần thoại, và không phải ngẫu nhiên mà ngày Phục sinh lại là một lễ hội mùa xuân.
Những ý nghĩ này giải thích cho niềm tin vào sự sống sau cái chết – và cả sự thật đằng sau nỗi khiếp sợ, và niềm khao khát công lý. Nỗi khiếp sợ thì không cần phải giải thích nhiều; còn công lý tối thượng là một tham vọng ít rõ ràng hơn của những kẻ có chỗ ngồi ấm cúng, vị trí cao trên chuỗi thức ăn. Ta quên mất rằng, cả trong hiện tại lẫn xuyên suốt lịch sử, tồn tại là một công việc nặng nhọc đối với hầu hết mọi người. Trong quá khứ, chỉ có một số ít người có cơ hội để nói hoặc làm, mà tiếng vọng từ lời nói và hành động của họ còn lưu lại ở nhân gian. Lịch sử dựa trên sự hy sinh của một đội quân những kẻ không mặt, không tên đã vật lộn để sống, mà không có gì nhiều để mong chờ. Nhờ sự sắp đặt của tạo hóa, ít ra họ đã may mắn được đứng dưới ánh mặt trời trong những tháng ngày ngắn ngủi. Ảo vọng về một cuộc sống vui vẻ sau cái chết suy cho cùng là hình ảnh phản chiếu buồn thảm và là lời ta thán về những thực tế buồn thảm của cuộc sống này. Điều này giúp ta hiểu rõ hơn châm ngôn của Spinoza về một người sáng suốt. Nó giúp ta nhận ra rằng nếu người sống còn phải đố kỵ với người chết, thì nhân loại thực sự đã thất bại thảm hại.
Phản Chiếu dịch.