Ký ức không cho ta quyền lựa chọn, mà chỉ ghi nhớ những gì nó muốn.
LIVY
Plutarch nói: 'Lãng quên biến mọi chuyện thành hư vô'. Cách nhìn này dựa trên tiền đề cơ bản rằng ký ức là một giác quan nhận thức quá khứ, cũng như đôi mắt và các giác quan khác dùng để nhận thức hiện tại. Do đó, ký ức là một nguồn tri thức, những vết tích trong tâm trí kết nối ta với những sự kiện đã qua. Mối liên hệ nhân quả giữa những trải nghiệm gốc và những ký ức hiện tại là nhịp cầu dẫn về quá khứ. Quan điểm này có vẻ khá quan trọng, bởi vì làm gì có con đường nào khác tương đương để tìm về quá khứ. Các tài liệu và di vật lịch sử là những thứ thuộc về hiện tại. Sự xác thực của chúng thường không rõ ràng.
Thật không may, xem ký ức là một nguồn tri thức là một giao ước đầy rủi ro. Ký ức tồn tại ở hiện tại, cũng như những tài liệu của các nhà sử học, và ký ức chân thật thường khó phân biệt với ký ức nhầm lẫn hoặc sự tưởng tượng đơn thuần. Giữa một trải nghiệm về mặt tinh thần và một sự kiện quá khứ có thể không có mối liên kết đáng kể nào, nhưng trải nghiệm tinh thần đó vẫn có thể được xem là một ý ức. Trong bản chất của vấn đề này, không thể xác thực được một ký ức hoàn toàn đầy đủ. Đặt ký ức song song với sự kiện được cho là gây ra nó để kiểm định tính chính xác của nó là bất khả thi.
Ngay cả những ký ức xác thực có thể rất không đáng tin cậy. Các tòa án đứng đắn không xem lời khai của nhân chứng là xác thực nếu không có bằng chứng phù hợp. Sự đồng thuận giữa các nhân chứng có thể củng cố lời khai, nhưng chỉ ở một mức độ giới hạn; bởi vì ký ức là chủ quan, và cảnh sát biết một điều khiến bản thân họ cũng bực mình, đó là hai nhân chứng của cùng một sự kiện có thể đưa ra tường trình rất khác nhau. Ký ức có thể thay đổi, thêm bớt hoặc méo mó dưới sức ép của thời gian.
Mặc dù ký ức là một nguồn tri thức không đáng tin cậy về quá khứ, vai trò của nó đối với tri thức và sự tự nhận thức là không thể bàn cãi. Tri thức cần có sự ghi nhớ. Bất lực trong việc sử dụng những thông tin thu thập được và những kinh nghiệm quá khứ là một hạn chế nghiêm trọng đối với việc thực hiện các nhiệm vụ tinh thần và thực tiễn. Tương tự, ký ức là sống còn đối với sự tự nhận thức. Khi một người bị mất trí nhớ, một trong những hệ quả đáng e ngại nhất là mất đi sự nhận thức về bản thân. Có quan điểm cho rằng tập hợp các ký ức được tích lũy là điều làm cho một người là chính người đó xuyên suốt cuộc đời. Khi ký ức mất đi, anh ta không còn là con người đó nữa và trở thành một người khác, mới mẻ và như là chưa hình thành.
Tuy vậy, quá nhiều ký ức có thể tai hại không kém. Trong truyện ngắn 'Funes kẻ nhớ nhiều', Jorge Luis Borges mô tả sự khốn khổ của một người không thể quên một điều gì, và bị tra tấn bởi gánh nặng của sự hồi tưởng đầy đủ. Trong một lời tiên tri đưa ra chỉ trước sự kiện Holocaust, Sholem Asch từng viết, 'không phải khả năng ghi nhớ, mà sự đối nghịch của nó, chính là khả năng quên lãng, mới cần thiết cho sự tồn tại của chúng ta.' Chân lý này được chứng thực bởi những người sống sót sau thảm họa Holocaust như là một phần quan trọng của quá trình hồi phục, trước khi họ có thể bắt đầu quá trình hồi tưởng một cách đúng đắn.
Aeschylus gọi ký ức là 'mẹ của những nàng thơ', theo đó đồng nhất ký ức với nền tảng của tất cả nghệ thuật. Người Hy Lạp đôi khi gọi những nàng tiên thi ca là 'Mneiai', nghĩa là 'sự hồi tưởng'. Theo nghĩa này ký ức không phải là sự hồi tưởng của cá nhân mà là một sự kế thừa tập thể, và Aeschylus muốn nói rằng nếu không có sự kế thừa theo nghĩa này, sẽ không có văn chương hay âm nhạc, không có lịch sử hay khoa học. Bởi vì tiến trình của tất cả những mưu cầu này có tính tích lũy, dựa trên những bài học đã được học và những lỗi lầm đã được sữa chữa. Đó là một lý do mà vì sao bộ môn lịch sử, một nỗ lực đạt được ký ức đồng thuận tập thể – một sự kế thừa – là rất quan trọng. Nếu không hiểu biết đối với lịch sử, ta luôn có nguy cơ sẽ phát minh lại cái bánh xe, nhiều khi theo những hình thù khác mà không phải là hình tròn.
Sự kế thừa khác với ký ức cá nhân trên một phương diện rất quan trọng: ký ức cá nhân có thể đúng hoặc sai, còn sự kế thừa thì không – nó chỉ là chính nó thôi.
Đánh giá thấp thời gian mà loài người cần tiêu tốn để hiểu được những thảm kịch mà họ phải chịu đựng luôn là một sai lầm, đặc biệt là những thảm kịch tự họ gây ra cho mình. Trong nửa thế kỷ từ kết thúc Thế chiến thứ hai, bằng chứng về cuộc diệt chủng người Do thái ở Châu Âu của Phát xít đã có nhiều hiểu biết chi tiết, với lượng dữ liệu đồ sộ được phân tích tỉ mỉ bởi giới học giả. Một cuộc thảm sát hàng triệu người, tiến hành trên một quy mô công nghiệp, lẽ dĩ nhiên không thể trốn thoát khỏi con mắt tọc mạch của lịch sử. Các bằng chứng đã lưu lại từ hành vi thể hiện nhận thức bệnh hoạn về trật tự xã hội của kẻ thủ ác, và sự sống sót của rất nhiều nhân chứng bị bỏ lại sau những tham vọng kinh hoàng. Nhờ đó mà khi những người theo chủ nghĩa xét lại thuyết phục ta rằng Holocaust đã không xảy ra, hoặc đã "không tệ như là người ta vẫn nói", những lời đó rơi vào hư vô: ngọn núi sự thật cũng sừng sững như nỗi kinh hoàng mà nó ghi lại.
Thế nhưng, sự phân tích có hệ thống các sự thật lịch sử làm cho khả năng nhận thức thảm kịch Holocaust về mặt tâm lý không phải là dễ dàng hơn, mà là khó khăn hơn. Chúng ta càng biết nhiều, đến chi tiết từng cá nhân nào ở vào những thời điểm và những địa điểm xác định nào đã xả súng hay bơm khí độc giết chết hàng tá, hàng trăm, hàng ngàn đàn ông và đàn bà, người già và con nít, cả những đứa trẻ chưa biết đi, thì cảm nhận về sự méo mó và lầm lạc về đạo đức càng lớn lên, sự sự ghê tởm và thương hại phình to làm cho khả năng thấu hiểu trở nên khó khăn. Một điều ta biết là phải không ngừng cố gắng chặt đứt mớ lúc nhúc đầu của con quái xà chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa quốc gia, và hận thù tôn giáo và văn hóa mà ở mọi nơi không ngừng đe dọa ta với những mối nguy hại giống nhau – như lịch sử cận đại đã ghi nhận ở Balkans, Ulster và Kashmir, East Timor, Tibet và Rwanda.
Đó là lý do rất nhiều người Châu Âu mơ mộng về một cuộc thống nhất châu lục của họ, để giảm đi những điều kiện cho chiến tranh và những gì có thể xảy ra dưới cái bóng của nó. Đó là lý do phong trào nhân quyền tồn tại, dù với tiến triển chậm chạp đã hình thành các tổ chức quốc tế có khả năng thi hành những thông lệ được đồng thuận bởi các nước thành viên Liên Hiệp Quốc. Những phong trào mang tính lịch sử này là phản ứng trước thảm họa Holocaust, và hiện trạng va vấp trì trệ của các phong trào này là một biểu hiện đáng lo ngại chứng minh cho ký ức ngắn ngủi và sự vị kỷ mù quáng của nhân loại, những khiếm khuyết mà thậm chí là một sự xúc phạm đáng ghê tởm đối loài người như thảm họa Holocaust cũng không chữa cho được. Nhân loại do đó cần phải cố gắng mà ghi nhớ sâu sắc ký ức về Holocaust, cho đến khi sự lặp lại của nó trở thành hoàn toàn không thể.
Phản Chiếu dịch.