Sợ cá mập thì làm sao mò được ngọc trai.
SA’DI
Nhiều người yêu thích các hoạt động giải trí bằng sự sợ hãi, như phim kinh dị hay những trò chơi cảm giác mạnh ở hội chợ. Người ta nói, về cơ bản nó liên quan đến một thực tế là hệ thần kinh trung ương của con người cần được kích thích. Các nhân tố kích thích có thể sinh ra từ bên trong bởi adrenaline và các chất hóa học nội sinh khác, hoặc từ bên ngoài dưới dạng thuốc hộp, thuốc viên, hay thuốc tiêm. Những kích thích bên trong và bên ngoài này giống như muối và tiêu rắc lên thức ăn. Khi đã mất đi sự nhạy cảm đối với những hương vị tinh tế tự nhiên, người ta cần gia vị để kích thích giác quan. Khi cái vuốt ve của nhân tình, tính khiêu gợi của âm nhạc, sự mê hoặc của ý niệm... đã quá nhạt nhẽo để khơi nguồn cảm hứng, thì phim kinh dị giống như một món ăn cay xé lưỡi, một phương án cứu chữa cảm xúc. Mà tại sao không? Mọi khẩu vị đều bình đẳng.
Nhưng giải trí kinh dị không thực sự là sợ hãi; và sợ hãi là kẻ thù của nghị lực. Theo Aeschylus, sợ hãi làm cho ta yếu đuối. Nó lật đổ lòng tự tin, cản trở khả năng hành động, làm thui chột quyết tâm. Bằng cách bóp méo nhận thức, nó tạo ra những quái vật và trở lực hoang đường. Cervantes nói: "Nỗi sợ hãi rất tinh mắt, nó thấy những thứ sâu tận dưới lòng đất hoặc cao vút muôn tầng mây". Đương nhiên cũng có ý kiến cho rằng nỗi sợ hãi có ích. Khả năng sợ hãi tạo ra lợi thế tiến hóa rõ ràng vì nó giúp ta cảnh giác trước những mối hiểm nguy. Ai đó thông thái đã từng nhận định rằng một nỗi e sợ xác đáng còn có giá trị hơn nhiều một lời khuyên hữu ích. Mặc dù vậy, bản thân nỗi sợ vẫn đáng sợ hơn đa số những thứ mà người ta thường sợ. Điều này rất đáng để suy ngẫm.
Không chỉ làm tê liệt khả năng hành động hợp lý, nỗi sợ hãi là nguồn cơn của nhiều vấn đề xã hội. Nó tạo điều kiện cho mê tín dị đoan, đối địch giữa các dân tộc, ác cảm trước những điều mới lạ và khác biệt, sự cứng nhắc và bảo thủ, những thông tục và quan niệm lỗi thời, làm cho ta chỉ biết bám riết lấy những gì quen thuộc. Do đó mà cái tính nhút nhát vốn bảo vệ loài dã thú trong những môi trường khắc nghiệt, nơi lởn vởn đầy những loài săn mồi đáng sợ, lại trở thành một gánh nặng đối với loài người hiện đại. Theo Voltaire, "nỗi sợ hãi không bao giờ tạo nên phẩm giá". Ngu dốt và sợ hãi là đồng minh thân cận; bằng sự cộng dưỡng lẫn nhau chúng ngày càng to béo và háu đói. Và nỗi sợ hãi có lý lẽ bất biến của riêng nó: những hãi hùng ta e sợ xảy đến nhanh hơn những hạnh phúc ta mong mỏi – chủ yếu bởi vì chính ta tạo điều kiện cho chúng xảy ra.
Sợ chết là một trong những nỗi sợ hãi phổ biến nhất, và một trong những căn nguyên của tính hèn nhát. Có người nói trong đời kẻ hèn nhát chết cả ngàn lần, còn người dũng cảm chỉ chết một lần. Tương tự đối với sợ đau – nhiều người có cảm giác tê buốt từ mũi khoan của nha sĩ khi nghĩ về buổi khám răng trước khi nó thực sự xảy ra. Làm sao chống lại nỗi sợ hãi đó? Trong trường hợp của cái chết, cần phân biệt giữa chết, là một trạng thái, và chết, là một hành động. Một số ý niệm tôn giáo về thế giới bên kia tô vẽ trạng thái chết như một viễn cảnh đáng khiếp sợ – nhưng đa số cách nhìn về cái chết không đến nỗi kinh dị cho lắm. Cách nhìn nhân văn nhất cũng là cách nhìn sáng suốt nhất: chết là một trạng thái không tồn tại, tương đương với trạng thái chưa được sinh ra, vì vậy không có gì đáng sợ. Chết còn là một hành động của sự sống, có thể dễ dàng hoặc khó khăn. Chỉ có đang sống mới sinh ra những mối ưu phiền; khi đó hãy tìm an ủi nơi chiếc nhẫn của Vua David, trên đó khắc những chữ này để nhắc nhở nhà vua suy nghĩ thấu đáo cả trong hạnh phúc lẫn bi thương: "Gì thì cũng sẽ qua".
Nỗi sợ hãi tồn tại để thử thách ta. Không ai dũng cảm nếu không sợ hãi. Câu nói của Sa’di về cá mập và ngọc trai bao hàm tất cả sự thông thái cần thiết để chiến đấu với nỗi sợ: vì chỉ được sống một lần, ta phải cố mò được ngọc trai, hoặc sống trong niềm ân hận. Và nếu có bất cứ thứ gì đáng sợ trên cuộc đời này, đó là sống mà tự tạo cho chính mình một lý do để ân hận khi lìa đời.
Phản Chiếu dịch.