Vấn đề của hệ thống kinh tế vị lợi là hầu hết mọi người chẳng có lợi gì.
E.B. WHITE
Thị trường tự do tư bản chủ nghĩa đã mang đến cuộc sống tốt đẹp cho hầu hết mọi công dân ở các nước công nghiệp tiên tiến, đưa các nước này trở thành trung tâm quyền lực và ảnh hưởng của thế giới. Sự ưu việt của đời sống kinh tế của các nước này so với phần còn lại của thế giới là không thể chối cãi. Ở các nước phương Tây giàu có, học thuyết thị trường tự do đã trở thành chính thống và đã chiến thắng tuyệt đối không chỉ trong hiện tại mà cả trong tương lai. Chẳng thế mà Francis Fukuyama đã tuyên bố rằng "lịch sử đã kết thúc". Những tiếng nói phản đối, dù có hùng hồn và xác đáng, chỉ như tiếng muỗi vo ve trước tiếng thét tự đại vang lừng của quan điểm thị trường tự do. Nhưng câu chuyện mà những tiếng nói phản đối nêu ra rất đáng lo ngại, và là lý do đanh thép để tìm cách kiến tạo một nền kinh tế thế giới công bằng và bền vững hơn.
Tư bản chủ nghĩa cần sự tăng trưởng liên tục trong sản xuất và theo đó là tăng trưởng tiêu dùng. Những lợi ích đạt được nhờ công nghệ và tiêu chuẩn sống nâng cao là thực tế rõ ràng trong thế giới phương Tây giàu có. Tuy nhiên, những người phản đối cho rằng cái giá phải trả là rất lớn, đặc biệt trong sự tàn phá môi trường, sự bóc lột các nước thế giới thứ ba ngập ngụa trong nợ nần, khoảng cách giàu nghèo khó chấp nhận, và tác động hủy diệt đối với cộng đồng bằng việc biến con người thành hàng hóa và các quan hệ xã hội thành giao dịch thị trường. Những người phản đối có thể trích dẫn liên tục vô vàn các số liệu minh họa cho các tác động khủng khiếp trên. Sự biến mất đáng kinh hoàng mỗi năm của diện tích rừng mưa nhiệt đới rộng lớn. Những đứa trẻ ở các nước Nam Á cùng nhau ngồi khâu những trái bóng đá để kiếm mấy xu mỗi ngày, những trái bóng cho con cái chúng ta chơi. Nạn đói ở các nước thế giới thứ ba gây ra bởi vì nền nông nghiệp tự cung tự cấp đã bị thay thế bằng những cây trồng phục vụ xuất khẩu. Tất cả điều đó đều không còn lạ lẫm gì. Nhưng không nhiều người biết những sự thật như là người giàu nhất Mexico có nhiều tiền hơn so với của mười bảy triệu người nghèo nhất Mexico gộp lại, hoặc là số tiền trả nợ hàng năm của nhiều nước nghèo còn lớn hơn số tiền họ chi cho y tế và giáo dục. Suy nghĩ về những điều đó buộc ta phải suy xét lại về sự bất công và bất ổn của trật tự kinh tế thế giới, và đặt chúng ta trước câu hỏi nên làm thế nào để thay đổi trật tự đó.
Những người bảo vệ toàn cầu hóa thị trường tư bản chủ nghĩa đặt niềm tin của họ vào hai điều: về lâu về dài, thị trường tự nó có khả năng khắc phục những sự tàn khốc và bất công tồi tệ nhất mà nó gây ra, và công nghệ đổi mới sẽ kiến tạo các "bản sửa lỗi kỹ thuật" giúp giải quyết những vấn đề gây ra bởi nền công nghệ và chế tạo hiện tại. Ví dụ như những người lạc quan thường bảo rằng xe hơi, bóng đèn và hệ thống sưởi ấm trong tương lai sẽ cực kỳ thông minh và hiệu quả, do vậy chúng ta sẽ tiêu thụ năng lượng ít hơn so với bây giờ, vì thế cho dù chúng ta có vẻ đang tiêu thụ nguồn nhiên liệu ở mức không bền vững thì cũng chẳng làm sao.
Lý lẽ đó không thuyết phục được các nhà phê bình. Họ chỉ ra rằng lẽ sống duy nhất của những kẻ kiểm soát nguồn lực là thu gom lợi ích, và thị trường tồn tại để giúp chúng đạt được mục đích. Thị trường biến cả thế giới thành con mồi cho các lực lượng cung và cầu vô nhân cách, và bỏ mặc số đông những kẻ chỉ biết phục tùng quy luật thị trường nhưng lại không được hưởng những thành quả mà nó mang lại. Những nhà phê bình này cho rằng, để đạt được công bằng xã hội, cần một nền kinh tế lấy lợi ích con người làm trung tâm. Một nền kinh tế như vậy phải bao gồm các nguyên tắc bảo vệ môi trường và văn hóa, sự công bằng kinh tế cho mọi cá nhân và mọi dân tộc, và chỉnh đốn hoạt động của các tập đoàn đa quốc gia.
Nhiều lý thuyết về hoạt động kinh tế bền vững, hạn chế và cân bằng hơn đã được nêu ra, nhưng chưa một lý thuyết nào có thể được chấp nhận, khi mà trật tự kinh tế hiện hành mang lại lợi ích cho một vài người, và đối với nhiều người khác lợi ích kinh tế chỉ là miếng mồi câu tai hại. Bất cứ sự thay đổi nào đủ để đảo ngược dòng chảy cuồn cuộn của trật tự đương đại sẽ đòi hỏi những thay đổi to lớn trong thái độ và thực tiễn. Thật khó hình dung điều đó sẽ xảy ra bằng cách nào, trừ khi một thảm họa toàn cầu nào đó xảy ra bắt buộc ta phải thay đổi.
Một số người cho rằng để tạo ra một tương lai công bằng và bền vững hơn, cần tổ chức lại xã hội thành các cộng đồng nhỏ tự quản địa phương theo văn hóa bần nông tự cung tự cấp đã tồn tại từ thời tổ tiên loài người khai thiên lập địa. Có nhà sử học từng mô tả cách tổ chức xã hội cổ xưa đó là "thành tựu đẹp đẽ nhất của loài người". Để giải quyết những vấn đề tệ hại mà thị trường tự do tư bản chủ nghĩa gây ra, phải quay trở lại cuộc sống bần nông, hạn chế tiêu dùng, cắt giảm tăng trưởng, trì trệ và cấm đoán. Thật khó có thể xem đó là một lựa chọn nghiêm túc, không chỉ đối với những kẻ được vỗ béo trong chủ nghĩa tư bản, mà cả số rất đông người thèm thuồng liếm láp mật mỡ tư bản chủ nghĩa.
Nhận định của các nhà phê bình kinh tế thế giới hiện đại thường gây tranh cãi, bởi vì thực sự có nhiều điều đáng để phàn nàn về những ảnh hưởng của kinh tế đối với thế giới tự nhiên và xã hội cũng như bất công cùng cực của nó. Rất cần phải thay đổi. Nhưng ngoài những đề xuất không thỏa đáng như trên, một lối thoát thực sự cho tình thế tiến thoái lưỡng nan này vẫn còn chờ được tìm ra.
Tuy vậy, có những người không những bảo vệ mà còn tán thưởng trật tự thị trường tự do và động lực của nó là chủ nghĩa tiêu dùng. Xã hội học chính thống nói rằng chủ nghĩa tiêu dùng là một sự áp bức. Đội ngũ tiếp thị nhiều thủ đoạn đang thao túng ta, biến ta thành những nạn nhân thụ động, chỉ biết tiêu dùng không ngừng nghỉ và không mục đích với số lượng ngày càng tăng. Ngành công nghiệp quảng cáo tạo ra những nhu cầu giả tạo và lừa ta tin rằng mua một món hàng là mua niềm hạnh phúc. Các nghiên cứu về chủ nghĩa tiêu dùng và những đồng minh của nó - tiếp thị, thương hiệu, thời trang, mua sắm, đóng gói, rác thải, sự ô nhiễm, thói ganh đua, văn hóa vứt bỏ và sự thương mại hóa các giá trị - khiến người đọc phải buồn nôn, vì chúng chỉ ra cơ chế thuyết phục và cưỡng ép xấu xa bỉ ổi của chủ nghĩa tư bản.
Học thuyết chính thống bảo rằng các nhân viên tiếp thị biến ta thành một chủng loại vật nuôi ngoan hiền và sốt sắng tin tưởng một cách mù quáng rằng mua sắm là một thiên đường. Nhiều nhà bình luận danh tiếng như Thornstein Veblen, John Kenneth, Van Packarot, Raft Nader, và các triết gia thuộc trường Frankfurt, đồng thanh lên án sự lãng phí, ngu ngốc, giả dối, nhận thức sai lầm và sự bức hại của xã hội tiêu dùng. Họ mô tả chủ nghĩa tiêu dùng là một âm mưu nhằm ép buộc ta phải lao động để có thể mua được những niềm vui vụn vặn. Các vật phẩm vô dụng chỉ là thứ cơm thừa canh cặn rơi vãi từ bàn ăn của những nhà sản xuất kếch xù. Và trong khi ta đang ngồi trước chiếc tivi nhấp nháy ánh sáng xanh chiếu đầy các mẫu quảng cáo và thưởng thức món đồ ăn nhanh hâm lại bằng lò vi sóng, thế giới của ta đã ngập ngụa trong rác thải và sự ô nhiễm.
Thế nhưng những bằng chứng ủng hộ học thuyết chính thống này là không rõ ràng. Dữ liệu khác nhau cho thấy người tiêu dùng thông minh trong các lựa chọn của họ và mua sắm là một nguồn ý nghĩa sâu sắc trong thế giới hiện đại. Học thuyết chính thống dường như ngụ ý rằng chỉ cần các nhà quảng cáo để mọi người yên, họ sẽ bắt đầu đọc Wittgenstein và lắng nghe Mahlen. Không đâu. Người ta ham muốn vật chất, các tiện nghi, người ta thích mua sắm và sở hữu. Và như quy luật cung cầu chỉ ra, chính người tiêu dùng là kẻ dẫn dắt, và nhà sản xuất và nhà quảng cáo nháo nhào chạy theo, cung cấp những niềm an ủi và những sự cứu rỗi bằng các nhãn hàng và cung cấp niềm hân hoan của sự sở hữu.
Có lẽ vì vậy mà sự say mê tiêu dùng của người tiêu dùng không quá đáng ghét. Những người ủng hộ tuyên bố rằng tiêu dùng là niềm đam mê và sự sáng tạo của cuộc sống đương đại. Thông qua việc mua và sở hữu, ta tự định nghĩa bản thân, giải nghĩa xã hội, và gắn kết cuộc sống của mọi người với nhau. Không phải ta thích lái xe, mà là ta muốn sở hữu một chiếc Ferrari; không phải ta thích sâm panh, mà là ta muốn sở hữu một chai Veuve Cliquot; không phải ta thích quần áo, mà là muốn sở hữu một bộ vét Armani. Sở hữu những thứ này tạo ra ý nghĩa cho bản thân ta. Ngôn ngữ của thương hiệu, sản phẩm và dịch vụ là ngôn ngữ chung của cộng đồng. Nhãn hiệu và quảng cáo là biểu tượng văn hóa của thời đại này, là biển chỉ dẫn để ta tìm đường trong thế giới của mình và đánh giá những gì chúng ta gặp trong thế giới đó. Cả ngôn ngữ và hình ảnh của chúng đều cung cấp những gì mà trước đây là vai trò của tôn giáo – một cấu trúc chung. Nhưng xã hội tiêu dùng có tính dân chủ và công bằng hơn so với xã hội tôn giáo, vì nó là một sự liên kết cộng đồng. Vì người tiêu dùng không phải là những kẻ ngốc, không thụ động tiếp thu các giáo điều từ giới tu sĩ. Người tiêu dùng là linh mục của chính họ; họ biết họ muốn gì và họ đang đạt được điều gì.
Bàn về logic của các thương hiệu. Tại sao người ta mua và mặc đồ hiệu đắt tiền và nổi tiếng? Bởi vì nó giúp họ khẳng định vị trí xã hội, uy tín, sự tự tin và lẽ sống. Chính quyền sở hữu những giá trị vô hình này là cái mà người ta muốn mua bằng những phương tiện hữu hình. Đó là mấu chốt của chủ nghĩa tiêu dùng.
Vậy thì quan điểm rằng tiêu dùng không phải là áp bức có vẻ rất thuyết phục – tiêu dùng là hạnh phúc, tiêu dùng rất sung sướng, tiêu dùng mang lại ý nghĩa cho cuộc sống. Nhưng thật khó để cưỡng lại ý nghĩ rằng, nếu hạnh phúc thực sự quan trọng, ta có thể đạt được mức độ hạnh phúc tương đương với tiêu dùng, nhưng nhanh chóng và tiết kiệm hơn, bằng cách bơm một loại hóa chất thích hợp vào nguồn cung cấp nước. Và quan điểm này cũng lờ đi một vấn đề quá quen thuộc đến nỗi từ lâu nó đã trở thành sự sáo rỗng trong tất cả mọi sự sáo rỗng: Đó là tất cả những thứ đáng có trong cuộc sống, chẳng hạn như lòng tốt, trí tuệ, và tình cảm của con người, không có thứ nào được bày bán trong các trung tâm mua sắm của thế giới.
Phản Chiếu dịch.