Dũng khí là một sự cứu rỗi.
PLATO
Euripides nói: "Trước hiểm nguy, kẻ hèn nhát thì lẩn trốn còn người dũng cảm thì đương đầu". Là dân tộc trí thức và triết lý đầu tiên trên thế giới, người Hy Lạp cổ đại đã nghiệm ra rằng niềm hy vọng, lòng nhẫn nại, tính hãnh diện của một người bị đe dọa ghê gớm khi lao vào một cuộc tranh luận hơn là khi sát hại kẻ bất đồng quan điểm với mình, và vì vậy tranh luận cũng cần nhiều dũng khí hơn.
Người ta hay cho rằng dũng cảm là phẩm chất của chiến binh và đặc trưng của chiến trường, và tương tự, được chứng tỏ qua các cuộc phiêu lưu trên những dốc cao của đỉnh Everest, dưới những vực thẳm của đại dương, hoặc ở các đấu trường thể thao. Nói cách khác, lòng dũng cảm hiện hữu bất cứ nơi đâu đòi hỏi sự gắng sức, sự bền bỉ và ý chí vượt qua những giới hạn thể chất. Điều này đúng. Nhưng lòng dũng cảm cũng thường được thể hiện đầy khắp trong cuộc sống thường nhật, bởi vì nó rất cần thiết. Và có những khi, như Seneca nói trong một bức thư gửi Lucilius, "chỉ sống thôi đã là một hành động dũng cảm".
Cuộc sống thường nhật tạo nên nhiều dũng khí phi thường hơn cả chinh chiến và phiêu lưu, nhờ vào những ngẫu nhiên và những hiểu nhiên của nó: buồn khổ, bệnh tật, thất vọng, đau đớn, đấu tranh, nghèo đói, mất mát, sợ hãi. Chúng là những đặc trưng phổ biến của đời người, và hàng trăm ngàn người phải chịu đựng chúng mỗi ngày, đòi hỏi những sự chịu đựng và dũng khí khiến cho việc leo lên đỉnh Everest dường như cũng hóa giản đơn. Leo núi và lặn biển là những hoạt động khép kín trong một khoảng thời gian nhất định, và nếu không có gì sai sót xảy ra, sẽ trả về trạng thái ban đầu sau khi chúng được hoàn thành. Đối mặt với đau khổ và thất vọng lại khác hẳn. Chúng là những định mệnh xa lạ, khác biệt, không giới hạn, ẩn chứa những điều không thể thấy trước, hứa hẹn có chăng chỉ là sự chịu đựng khủng khiếp trước khi được cứu chuộc. Khi nằm trằn trọc thâu đêm vì đau đớn, khi thức dậy mỗi sớm mai với những nỗi niềm dằn vặt, nhưng vẫn phải đứng lên và tiếp tục là những gì tốt nhất của chính mình, đó chính là lòng dũng cảm.
Lòng dũng cảm chỉ có thể được cảm nhận bởi những ai biết sợ hãi. Nếu một người không biết sợ hãi khi lao vào chiến hào quân địch hay xông vào một pha tranh bóng trên sân cỏ, anh ta không dũng cảm. Vì không hiểu sự thật đơn giản này, người ta không nhận ra và không tưởng thưởng những lượng tử chân chính của đức tính hiệp nghĩa anh hùng trong cuộc sống. Một diễn giả hồi hộp, một diễn viên run rẩy, một bệnh nhân lẩy bẩy trước kim tiêm và dao mổ, đều là những biểu thị của dũng khí. Euripides lại nói: "Dũng cảm là chịu đựng những gì ơn trên ban cho". Thật ra ông nói "chịu đựng không nao núng", nhưng sự thêm thắt này làm hỏng bét ý nghĩa của câu nói, bởi vì nếu dũng cảm đi đôi với sợ hãi, thì nao núng là hiển nhiên thôi.
Đôi khi cuộc sống bình thường đòi hỏi một lượng dũng khí phi thường. Nhưng có một loại dũng khí đặc biệt cần phải có để làm người: dũng khí để chứng kiến những điều mới mẻ và để chấp nhận những cơ hội trải nghiệm khác nhau. Rilke khai sáng ý tưởng này trong Thư gửi thi sĩ trẻ[1], khi nói rằng ta cần "dũng cảm đối đầu với điều lạ lùng nhất, điều dị biệt nhất và điều khó hiểu nhất". Ông muốn nói đến dũng khí để chấp nhận tình yêu khi biết yêu, để đối mặt với cái chết khi nó đến, để chịu đựng những nghiệt ngã - cái giá cho những duyên lành, và trên hết, dũng khí để tạo nên dấu ấn cá nhân trên đời, dù chỉ là một dấu ấn khiêm tốn thôi. Cho dù dũng khí này rất giản dị và rất riêng tư, nó có thể tạo ra một sự khác biệt cốt yếu để cho cuộc sống của ta được mãn nguyện và đầy đủ ý nghĩa.
Phản Chiếu dịch.
[1] Letters to a Young Poet.