Có giáo dục mới được tự do.
EPICTETUS
Giáo dục, và đặc biệt là "giáo dục khai phóng", là thứ kiến tạo nên xã hội văn minh. Nó còn quan trọng hơn cả thành tựu kinh tế, thứ mà, ôi trời ơi, dường như tất cả những gì các chính trị gia cho rằng là cần thiết cho xã hội văn minh.
Để hiểu được vai trò văn minh và đạo đức của giáo dục, ta cần phải thoát khỏi những định nghĩa hẹp hòi của "đạo đức", như là được nhận thức trong thời hiện đại (cụ thể là từ thế kỷ thứ mười bảy), và quay trở về với khái niệm phổ quát cổ điển của "đạo đức". Theo cách dùng hiện nay, "đạo đức" chỉ áp dụng cho một phần cuộc sống – cho những khía cạnh của quan hệ giữa con người với nhau, và cho những khía cạnh nhất định của tính cách và hành vi. Không ai nghĩ rằng ăn chuối là một vấn đề đạo đức, hay việc một người chọn làm việc ở ngân hàng hay công ty xây dựng, hay sơn nhà màu gì. Người Hy Lạp cổ đại suy nghĩ khác. Đối với họ toàn bộ cuộc sống là một phạm trù đạo đức: họ nói rằng một người sống và hành động đúng như là một người toàn vẹn, cả sự phát triển của cá nhân và ảnh hưởng của cá nhân đó lên kẻ khác đến từ đặc tính tổng quát của cá nhân. Do đó cuộc sống phải được cân nhắc sáng suốt – theo cách nói của Socrates – và chỉ khi có hiểu biết thì mới cân nhắc sáng suốt được. Chính ở đây cần có giáo dục khai phóng.
'Giáo dục khai phóng' có nghĩa là giáo dục bao gồm văn học, lịch sử và sự trân trọng nghệ thuật, và cho chúng tầm quan trọng ngang bằng với các chủ đề khoa học và thực tiễn. Giáo dục theo cách này mở ra khả năng để ta sống suy tư và hiểu biết hơn, đặc biệt là trong lĩnh vực tình cảm và kinh nghiệm của con người, như nó tồn tại bây giờ và ở đây, và trong quá khứ và bất cứ nơi nào. Điều này, đến lượt nó, làm cho ta thấu hiểu hơn những mối quan tâm, những nhu cầu, những ham muốn của người khác, nhờ đó ta có thể đối xử với họ bằng sự tôn trọng và cảm thông, cho dù sự khác biệt lớn lao trong những lựa chọn và trải nghiệm định hình nên cuộc đời họ. Khi sự tôn trọng và cảm thông được đáp lại, tạo nên sự tôn trọng và cảm thông lẫn nhau, giúp chắp nối những khoảng cách có thể tạo nên xích mích giữa con người với nhau, và thậm chí tạo ra chiến tranh. Hoặc tối thiểu là chấp nhận những khoảng cách đó. Chỉ cần sự chấp nhận là đủ.
Viễn cảnh đó quá hoàn hảo. Hèn gì mà một sĩ quan quân đội phát xít Đức có đọc Goethe và nghe nhạc Beethoven, và sau đó thì làm việc trong phòng khí ngạt, cho nên giáo dục không tự động tạo ra những con người tốt. Nhưng nó hẳn là có thể tạo ra những con người tốt nhiều hơn sự ngu dốt và ích kỷ đến từ sự thiếu hiểu biết.
Giáo dục khai phóng là một lý tưởng đang biến mất trong xã hội phương Tây đương đại, đặc biệt ở những vùng nói tiếng Anh. Giáo dục chủ yếu giới hạn ở giới trẻ, và nó cũng không còn là giáo dục khai phóng thực thụ nữa mà là một thứ kém tham vọng hơn, được đặc biệt thiết kế cho mục đích cụ thể là khả năng kiếm việc làm – mặc dù đương nhiên là điều này cũng rất quan trọng. Đây là một sự mất mát, bởi vì mục đích của giáo dục khai phóng là sản sinh ra những con người sẽ tiếp tục học tập sau khi cuộc giáo dục chính thức của họ đã kết thúc, con người biết suy nghĩ, biết nghi vấn, và biết làm thế nào để tìm ra những câu trả lời khi họ cần. Điều này đặc biệt quan trọng khi xuất hiện những tình huống mâu thuẫn chính trị hoặc đạo đức và cần sự dàn xếp lại trong xã hội; cho nên các thành viên của một cộng đồng không thể thiếu suy nghĩ hay thiếu hiểu biết nếu xã hội văn minh muốn được bền vững.
Giáo dục ở trình độ cao thì tốn kém, và đòi hỏi xã hội phải đầu tư lớn. Nhưng đạt được mục tiêu của giáo dục chất lượng cao đem tới những thành quả rực rỡ. Nó hứa hẹn tạo ra một tỷ lệ cao những người không đơn thuần chỉ là những anh lính chiến trong cuộc đấu tranh kinh tế, bằng cách giúp họ nhận và cho nhiều hơn trong trải nghiệm văn hóa và xã hội, mang đến cuộc sống trọn vẹn hơn và dự phần nhiều hơn trong công việc và bên ngoài công việc – đặc biệt là trong các cuộc đối thoại xã hội và trong các trách nghiệm công dân và chính trị. Những người hiểu biết hơn và suy tư hơn thường tử tế hơn những kẻ ngu dốt, hẹp hòi, ích kỷ, không văn minh, dù một số kẻ có học nhờ hoàn cảnh cho phép vẫn giữ được những tính xấu đó. Sự khác biệt này ảnh hưởng rất lớn đến những gì chúng ta đang chứng kiến trong thời đại này.
Không thể phủ nhận rằng giáo dục là một sự chuẩn bị cần thiết của cuộc sống và công việc trong một nền kinh tế phát triển. Các nền kinh tế hiện đại đòi hỏi những lao động có tay nghề và động lực cao, những người có thể tận dụng những cơ hội mà nền kinh tế mang lại nếu họ được trang bị để đáp lại nhu cầu của nền kinh tế.
Nhưng một vấn đề nghiêm trọng của giáo dục là mối liên hệ này đã trở nên quá trực tiếp. Aristotle nói chúng ta giáo dục bản thân để có thể giải trí một cách có đẳng cấp, đây là một cách nhìn đối lập với quan niệm đương thời rằng chúng ta giáo dục bản thân để lo công ăn việc làm. Theo đó quan niệm đương thời bóp méo mục tiêu của giáo dục bằng cách hướng tới sự phát triển của cá nhân nhưng không xem chính nó là mục đích cuối cùng, mà chỉ là phương tiện cho quá trình kinh tế.
Căn bản là cần phân biệt giáo dục với đào tạo, cần nhận ra rằng con người cần cả hai, và cần phải tránh lầm lẫn về đào tạo. Trẻ em cần được đào tạo để làm toán, đọc, đánh vần và viết, cũng như cơ thể một vận động viên cần được đào tạo: cần có sự huấn luyện, sự lặp đi lặp lại và thực hành. Khi kỹ năng trở thành phản xạ, chúng cho trẻ sự tự tin và công cụ để hưởng lợi ở bước tiếp theo, đó là sự giáo dục đúng đắn: quá trình học cách suy nghĩ và học cách làm sao để tìm ra và sử dụng thông tin khi cần. Trên hết, giáo dục bao gồm tinh luyện khả năng phán xét và đánh giá. Heraclitus nhận xét rằng học tập chỉ là một cách để đạt mục đích cuối cùng đó là sự thấu hiểu – và sự thấu hiểu là giá trị tối thượng của giáo dục.
Từ nguyên của 'giáo dục'[1] có nghĩa là dẫn dắt ra, hướng ra, một ý tưởng đến từ một lý thuyết không thực tế nhưng có ảnh hưởng sâu rộng của Plato. Ông tin rằng chúng ta là những linh hồn bất tử tồn tại trước bản thể. Linh hồn đó biết tất cả mọi thứ khi ở bên ngoài cơ thể, nhưng chúng ta đã lãng quên mọi thứ khi được sinh ra. Theo lý thuyết của Plato, học tập là nhớ lại, đi học là hoạt động dẫn dắt ra những gì đã bị lãng quên còn trú ngụ trong tâm trí. Lý thuyết này được điều chỉnh lại hợp lý hơn bởi những nhà tư tưởng sau này, những người xem giáo dục là quá trình khám phá nhân tài và năng lực tiềm tàng trong mỗi con người, thay vì những tri thức bẩm sinh. Theo một nghĩa tốt đẹp, lý luận này gần hơn với chuẩn: ta vẫn thường cho rằng tài năng của con người có thể thăng hoa nếu có cơ hội phù hợp.
Phản Chiếu dịch.
[1] Trong tiếng Anh.