Kẻ rao giảng đạo đức thường là kẻ đạo đức giả.
OSCAR WILDE
Kẻ rao giảng đạo đức là kẻ cố áp đặt quan điểm về lối sống và hành xử của hắn lên người khác. Mỗi người được quyền có quan điểm riêng, và có quyền trình bày quan điểm của mình theo cách hăng hái và hùng hồn nhất. Những kẻ rao giảng đạo đức không dừng ở đó. Chúng buộc người khác phải chấp nhận quan điểm của chúng, và thực thi điều này bằng các hình thức cưỡng bức như sự phản đối của số đông hoặc chế tài pháp lý, trong đó chúng đặc biệt ưa thích các chế tài pháp lý. Khi ép buộc người khác phải phục tùng những thành kiến của chúng, kẻ rao giảng đạo đức thể hiện tính vô cảm, sự tàn nhẫn, tính cứng nhắc, thiếu trí tưởng tượng, thiếu lòng trắc ẩn, thiếu hiểu biết và vô tri đối với sự đa dạng về sở thích và nhu cầu trong trải nghiệm của con người. Chúng ngạo mạn tin rằng chỉ có sở thích và nhu cầu của chúng mới là đứng đắn. Chúng bao biện rằng đang ra sức bảo vệ người khác khỏi các mối nguy hại, và như vậy có nghĩa là chúng chiếm đoạt không chỉ độc quyền phán xét đạo đức, mà cả quyền quyết định thay người khác điều gì là tốt nhất cho bản thân họ.
Những kẻ rao giảng đạo đức thể hiện sự thù địch bằng cách chỉ trích pháp luật khai phóng về đồng tính luyến ái, phá thai, mại dâm, kiểm duyệt thông tin, phỉ báng, sinh con ngoài giá thú, và những vấn đề tương tự, những lối sống mà cá nhân chúng căm ghét. Chúng thường cố sức áp đặt lựa chọn của mình dưới dạng một hoang tưởng bảo thủ về “luân thường đạo lý”. Chúng thường dối trá bằng cách nhân danh quan điểm của số đông – một luận cứ không đáng tin cậy mà chúng sẽ lẩn tránh trong những vấn đề khác. Động cơ thật sự của chúng là sự e ngại trước những quan điểm và hành vi cởi mở hơn những gì mà chúng cho phép bản thân tiếp nhận – tính rụt rè của chúng, những mối bất an tín ngưỡng, và nỗi sợ hãi rằng chính bản thân chúng có thể trở thành đồng tính luyến ái hay hoang dâm phóng đãng chẳng hạn, và vô số những động cơ cá nhân khác, khiến chúng hết sức cấm cản cả thế giới suy nghĩ, chứng kiến, thực hành theo những gì mà bản thân chúng không dám suy nghĩ, chứng kiến, thực hành.
Khi thể chế chính trị miễn nhiệm với chúng, những kẻ rao giảng đạo đức chỉ đơn thuần là những kẻ tự phụ cay cú lố bịch, luôn kêu ca và đổ lỗi, giãy nảy tức tối trước bất cứ ai khác biệt hoặc bất cứ ai thể hiện những khát khao tội lỗi của chính chúng. Khi có thể thao túng thể chế chính trị, chúng trở thành những thế lực độc địa, gây ra không chỉ phẫn uất trong xã hội, mà còn cả sự khốn cùng trực tiếp đối với những người có lối sống khác chúng.
Con người ở thời đại nào cũng nghĩ rằng họ đang sống trong khủng hoảng. Họ thường tặc lưỡi mà ta thán rằng mọi thứ đã trở nên tồi tệ, tội phạm gia tăng, chất lượng cuộc sống giảm sút, thế giới là một đống hỗn độn. Các tín đồ tôn giáo càng hay nghĩ rằng kỷ nguyên của họ thật là đồi bại đến mức sẽ đánh dấu ngày tàn của thế giới.
Đây là những suy nghĩ mê muội dựa trên niềm tin rằng thế giới đã từng có một điều gì đã mất – một thời đại ấm áp, huy hoàng, nhàn nhã như buổi trà chiều, khi đó không hề có mối hiểm họa nào từ bên ngoài hay xung đột nào ở bên trong. Nhưng khi ta bới móc trong mớ huyễn thoại này để tìm kiếm giải pháp cho những vấn đề thực tại, chính là điều mà kẻ rao giảng đạo đức thường làm, ta thấy thật là nan giải.
Lấy ví dụ những kẻ ca tụng cái gọi là "phẩm giá Victoria"[1] sẽ giải quyết được những vấn đề trong xã hội đồi bại của chúng ta. Họ khuyên bảo rằng ta cần phải học lấy từ cổ nhân lối sống vì gia đình, thanh bạch, sùng tín, mẫn cán và trật tự. Theo đó, mẫu mực của phẩm hạnh Victoria là hình ảnh Bà Nubbles giặt ủi trong tiểu thuyết của Dickens[2], nuôi ba đứa con trong một ngôi nhà hết sức tồi tàn, nhưng lại có "một cảm giác thoải mái tiện nghi" đến từ "sự sạch sẽ và ngăn nắp". Biểu tượng của phẩm hạnh Victoria là "bữa tiệc" giáng sinh nghèo nàn sầu thảm của gia đình Cratchits[3]. Những nhà hảo tâm theo trường phái này xây dựng thư viện và trường học và khuyên rằng hãy học lấy những phẩm hạnh Victoria thì tất cả mọi chuyện đều sẽ tốt đẹp.
Họ tuyên truyền cho quan điểm của mình bằng quan trắc về "sự tha hóa đạo đức". Một thước đo thường được dẫn chiếu là sự gia tăng của cái mà nhà sử học Gertrude Himmelfarb[4] gọi là "những đứa con hoang". Đây là biểu hiện của một nhà đạo đức Victoria chính hiệu và một ngụy biện có tính thành kiến về tội lỗi. Khái niệm "con hoang" thật là cổ hủ đến nỗi người ta phải tự hỏi những nhà đạo đức Victoria tân thời có nhận thức được các vấn đề mà xã hội hiện đại đang đối mặt hay không. Ngay cả Giáo hội Anh cũng không còn sử dụng những thuật ngữ dạng này nữa. Bởi vì chẳng có chút sai trái nào nơi những đứa trẻ được sinh ra ngoài giá thú, chỉ có muôn vàn lỗi lầm khi một đứa trẻ phải lớn lên trong nghèo khó. Tất cả chuyện hôn thú trên thế giới không ngăn được hàng triệu đứa trẻ trong thời đại Victoria suy nhược về cả thể chất lẫn giáo dục do sự bất công và bất bình đẳng trong xã hội thời đại đó, khi mà đói nghèo trầm kha, đường phố Luân Đôn lan tràn những mối hiểm họa, và các thế lực thị trường biến mại dâm trẻ em trở thành một trong những ngành nghề chiêu mộ nhiều lao động trẻ em nhất tại thủ đô.
Khi đứng ở một vị trí thuận tiện trên chuỗi thức ăn, ta ưa thích ý tưởng rằng những kẻ ở vị trí thấp hơn phải hành xử hiền hòa, dễ bảo và thanh bạch, sống nề nếp, tỉnh táo, tự túc và tự lực, giữ cho con cái theo kỷ luật và tự trói mình trong gông cùm của các khoản vay trả góp, như vậy chúng sẽ ngoan ngoãn lao động mỗi ngày bất chấp mức lương được ban phát. Ta thích điều này vì nó có nghĩa là ta phải đóng ít thuế hơn (bởi vì sẽ phải chi trả ít hơn cho các vấn đề tội phạm và phúc lợi xã hội) và nhờ vậy có thể hưởng thụ cuộc sống đặc quyền của ta một cách đầy đủ hơn. Thế nên ta kêu nài người khác phải giữ đạo đức cá nhân bởi vì nó ích lợi cho chính ta.
Thế nhưng, đòi hỏi người khác phải giữ đạo đức hiếm khi công hiệu. Giải pháp của các nhà đạo đức Victoria tân thời là kêu gọi mọi người thanh bạch và sùng tín; nếu họ cố thuyết phục một tên lưu manh đường phố theo cách đó chắc chắn sẽ nhận được hồi đáp tục tĩu. Cách duy nhất thực sự hữu ích để có một xã hội tốt đẹp phải đến từ đạo đức quần chúng, một khái niệm chỉ đạt được từ luận đàm và chiêm nghiệm trong trạng thái ý thức cao nhất về lòng bao dung, đó là làm cách nào mà chúng ta, một cộng đồng, cùng với nhau có thể sắp đặt mọi thứ theo hướng công bằng và hợp lý. Nghèo đói, dốt nát, bệnh hoạn, khuyết tật và tội phạm không chỉ đơn thuần là xấu xa về bản chất, mà còn gây lãng phí nguồn lực cộng đồng[5]. Để chống lại chúng, cần có những ý tưởng mới mẻ và sự quyết tâm, nhưng cũng cần có sự đầu tư bằng tiền. Giải pháp của các nhà đạo đức Victoria tân thời là một điều ước rỗng tuếch rằng những kẻ nghèo đói, những kẻ dốt nát và những kẻ tội phạm hãy đọc Samuel Smiles[6] và tự chúng phải trở nên đáng mến hơn. Cho đến hôm nay khi chúng ta nhìn quanh những con phố thị thành nơi kẻ ăn xin vẫn đang chìa tay ra như kể từ thời Victoria huy hoàng ấy, và vẫn đang nằm ngủ trên bậc cửa nhà hàng, và trở thành tội phạm trong cơn tuyệt vọng, đáng lẽ chúng ta đã phải học được rằng cổ xúy cho lối sống đạo đức chính nó không phải là câu trả lời.
Phản Chiếu dịch.
[1] Một giai đoạn lịch sử nước Anh, dưới sự cai trị của của nữ hoàng Victoria (1837-1901).
[2] Mrs. Nubbles, nhân vật trong tiểu thuyết The Old Curiousity Shop của văn hào Charles Dickens (1812-1870).
[3] The Cratchits, nhân vật trong tiểu thuyết A Christmas Carol của Charles Dickens.
[4] Gertrude Himmelfarb (sinh năm 1922). Sử gia bảo thủ người Mỹ, chuyên nghiên cứu về giai đoạn Victoria. Năm 1995, bà xuất bản một tác phẩm có nhan đề Sự tha hóa đạo đức xã hội: Từ những phẩm hạnh Victoria đến những giá trị tân thời.
[5] Ý tưởng này của tác giả có sự tương đồng với nhà kinh tế, triết gia đoạt giải Nobel người Ấn Độ Amartya K. Sen (1933). Trong cuốn sách Development as Freedom, Sen lý luận rằng sự nghèo đói gây lãng phí nguồn lực bởi vì chúng khiến con người không thể hiện được tiền năng của mình.
[6] Samuel Smiles (1812-1904), một tác giả người Anh. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông có nhan đề là Tự lực (1859).