Yêu một thứ gì là muốn nó sống.
KHỔNG TỬ
Không phải ngẫu nhiên mà để ngợi ca ái tình, ngày lễ thánh Valentine lại diễn ra vài tuần trước mùa xuân, như thể đánh thức tính đa cảm của loài người sau cơn ngủ đông. Mùa xuân đến, không khí cũng đa tình. Trăm hoa đua nở để kẻ si tình hái tặng người yêu. Ngành sản xuất sô-cô-la lại vớ bẫm. Thật ra, những thể loại tình yêu có ý nghĩa nhất đối con người không phải là thứ ngập tràn trong tiểu thuyết và chiếu bóng. Chính là tình yêu dành cho gia đình, bạn bè, đồng chí mới thực sự quan trọng, vì chúng bền bỉ trong cuộc đời ta, và mang đến cho ta nhận thức giá trị bản thân, sự bình ổn tâm hồn, và là khuôn mẫu cho những mối quan hệ khác.
Ngược lại, yêu đương là một sự xáo động, dù mãnh liệt cháy bỏng nhưng ngắn ngủi, tạm thời. Đối với con tim, tình ái ân thật thiết tha. Nó không chỉ thống trị thi ca, mà xuất hiện cả trong các phiên thảo luận quốc hội. Nếu đánh giá bằng mức quan tâm của công chúng, yêu đương là một trong những trải nghiệm sâu sắc nhất của đời người. Quả là nghịch lý, khi quan niệm phổ biến lại cho rằng, không kể một vài lần chơi bời thử nghiệm thời trẻ người non dạ, người trưởng thành chỉ nên trải nghiệm đỉnh cao của yêu đương một lần, và nó nên dẫn tới hậu quả thích đáng là một mối liên kết trọn đời. Ai mà yêu tha thiết hết người này đến người khác thì sẽ bị nói là vô trách nhiệm. Mà nói vậy cũng có lý: bởi vì yêu đương là một chuyện rất tốn thời gian, mệt mỏi, đê mê, đau đớn, gây biến đổi, vì vậy đòi hỏi một quá trình dài để phục hồi sự cân bằng, thậm chí nhiều khi cần đến cả một đời.
Tỉnh táo mà nói, yêu không phải là cách hay để hiểu một người, vì theo Stendhal, khi yêu mê đắm xuất thần, ta bao bọc người yêu trong muôn ngàn lớp pha lê, và nhìn thấy chỉ là một ảo tưởng, chứ không phải một con người. Theo đó, yêu là một trạng thái hoang tưởng, và thật may là nó thường ngắn ngủi. Nhiều người lại nói ái tình là thứ duy nhất cho phép ta bùng cháy để thiêu trụi những bức tường nghi thức chia cách con người với con người, chắn lối tâm hồn đến tâm hồn. Yêu là sự giao tiếp chân thật không phải bằng câu chữ, mà bằng ngôn ngữ của sự gần gũi ái ân, của khoái lạc và dục vọng.
Đây hoàn toàn không phải là bất đồng quan điểm duy nhất về yêu đương. Một cuộc tranh luận khác diễn ra ác liệt quanh câu hỏi liệu yêu đương là bản chất của con người, hay là một kiến tạo của xã hội và lịch sử, chỉ hiện hữu trong những thời đại và xã hội nhất định. Câu hỏi này cho thấy yêu đương là một hiện tượng chưa được hiểu rõ. Yêu đương càng trở nên khó hiểu khi thời nay, ta gán ghép những đặc tính và kỳ vọng của các loại tình yêu khác vào tình ái ân, và mặc nhiên cho rằng những đặc tính và kỳ vọng gán ghép đó lại là tự nhiên, không cần phải băn khoăn, cân nhắc.
Người Hy Lạp gọi những biểu hiện khác nhau của tình yêu bằng nhiều cái tên. Họ gọi tình yêu bác ái là agape. Họ gọi tình yêu tinh nghịch của trẻ con hoặc mối quan hệ giữa những người yêu đương qua đường là ludus. Sự thấu hiểu lẫn nhau giữa các cặp vợ chồng lâu năm là pragma. Tình yêu giữa anh chị em hoặc giữa đồng chí, đồng đội cùng nếm trải hoạn nạn là storge. Và họ gọi sự si mê ám ảnh là mania. Người Hy Lạp cho rằng mania có quan hệ mật thiết với eros, tức là dục vọng đắm say. Họ nghĩ rằng mọi dạng tình yêu đều có khởi nguồn thiêng liêng, ví dụ như eros được khơi dậy bởi thần tình Aphrodite. Nhưng những cảm hứng thiêng liêng không phải lúc nào cũng tốt đẹp. Người Hy Lạp nói sự ám ảnh dục vọng thường là một hình phạt giáng xuống bởi các vị thần, vì làm cho ta mất đi lý trí và sự tập trung, làm tổn hại những phẩm chất mà ta trân trọng, như trí tuệ và nhuệ khí. Theo những cách khác nhau, cả Plato và đồ đệ của ông là Aristotle đều đặt tình bạn trên đỉnh cao của cuộc sống cảm xúc, và xếp thứ tình yêu đòi hỏi về thể xác ở bình diện thấp hơn. Đối với nhiều người Hy Lạp, ataraxia, hay "an yên trong tâm hồn", là một điều thiện lành luôn bị đe dọa bởi tình yêu sắc giới cùng với sự cuồng si ám ảnh và lòng đố kỵ của nó. Đó là lý do mà Sophocles ca ngợi tuổi già, thứ giải phóng loài người khỏi cái ông gọi là "ách chuyên chế" của khát khao tình dục.
Sự phân biệt trên đây cho thấy người Hy Lạp hiểu rõ thực tế rằng các mối quan hệ thân thiết có thể mang nhiều mục đích. Con người cần nhiều loại thỏa mãn cảm xúc khác nhau, nhưng chủ yếu là những loại thỏa mãn cảm xúc đến từ sự cho đi và nhận lại tình bầu bạn, tình tương ái, sự khẳng định rằng mình được yêu mến và được ủng hộ. Thỉnh thoảng, ta có thể muốn được ở một mình, nhưng chẳng bao giờ ta thích cô độc. Ta cần cảm thấy được kết nối và được trân trọng. Tất cả sáu loại tình yêu của người Hy Lạp là các loại kết nối, và tất cả, ngoại trừ mania, giúp ta nhận thức giá trị bản thân. Trong tư tưởng Hy Lạp, mối liên hệ cảm xúc tuyệt vời nhất và mạnh mẽ nhất là tình bạn giữa những người tương đồng. Một người đàn ông có thể say đắm ái tình và nhục dục với một phụ nữ hoặc một chàng thiếu niên, nhưng điều này sẽ làm cho anh ta rối trí, và nếu quá đắm đuối say sưa thì sẽ bị xem là cuồng si[1].
Quá trình hạ cấp mối quan hệ với phụ nữ có một ảnh hưởng lâu dài và bất hạnh ở phương tây. Trong thời đại công giáo, cái gọi là "phiêu lưu tình ái"[2] chỉ được tung hê trong những tiết mục văn nghệ của giới nghệ sĩ hát rong Pháp. Đương thời, hôn nhân là sự sắp đặt mang tính kinh tế và thực dụng. Cách biệt về độ tuổi, giáo dục và địa vị xã hội làm cho quan hệ hôn nhân bình đẳng và bầu bạn rất hiếm hoi. Tình trạng này tiếp diễn mãi cho đến thời cận đại. Thomas Hardy[3] nhận định rằng ngay cả trong thời đại của ông ta, đàn ông và đàn bà không thể thiết lập được một tình bạn thân thiết chân thành, bởi vì họ chỉ giao kết với nhau trong hưởng lạc, mà không phải trong lao động.
Qua cách nói này, Hardy tiên đoán một tư tưởng mới mẻ kết hợp giữa yêu đương và bầu bạn. Điều này thực sự lạ lẫm trong nền văn minh tây phương đương thời. Mặc dù cả tình yêu và tình bạn đều được trọng vọng, chúng khá là tách bạch, và tình yêu lại có nhiều dạng thức khác nhau trong những giai đoạn lịch sử khác nhau. Khái niệm tình yêu đương-bầu bạn như chúng ta nhìn nhận ngày nay chỉ mới xuất hiện gần đây, nhờ công của các bộ phim Hollywood trong thời kỳ vàng son các thập niên 1930-1950. Thật ra, quá trình tiếp biến văn hóa dẫn đến lý tưởng và quan niệm tình yêu theo cách này đã bắt đầu trong văn học thế kỷ thứ mười chín qua những hình mẫu tình ái ngày nay rất quen thuộc: một cặp đôi yêu nhau, rồi hiến thân cho hôn nhân (hoặc những dạng thức tương tự hôn nhân xuất hiện gần đây) - cuộc phiêu mạo hiểm cùng nhau và dành riêng cho nhau, với trẻ con trong vườn và hoa hồng quanh cửa. Kết cục tiêu chuẩn của một cuốn tiểu thuyết ba tập thời Victoria[4] là cuộc đính ước giữa người hùng và quý cô trong chương cuối. Trước đó, tiểu thuyết của Jane Austen[5] đạt được đến kết cục hôn nhân bằng những cách tỉnh táo và cân nhắc hơn, tuyệt đối không phải bằng sự si mê ngộp thở và trống ngực thùng thùng, dù trong giai đoạn đầu mỗi tiểu thuyết nhân vật có thể động lòng thoáng qua, tỷ như để cho thấy Elizabeth không hoàn toàn bàng quan trước Darcy, hay Fanny không bàng quan trước Thomas. Quá trình tán tỉnh giữa Emma và ông Knightley là tiêu biểu của Austen: một vấn đề của tư duy và đạo đức, của phẩm chất và quyết đoán.
Trong thời đại của Hardy, tình yêu có dạng mania hoặc đam mê tình dục chín muồi. Theo lời tiên tri của Hardy về kiểu hình mẫu mới đang dần hình thành, yêu đương không chỉ để yêu đương mà còn để tiến đến những loại tình yêu khác – ái tình trở thành bến đỗ của tình bạn, tình đồng chí, tình cộng sự bình đẳng hoặc gần như bình đẳng trong cuộc phiêu lưu của đời người. "Khi tôi nhìn lên, em sẽ ở đó, và khi em nhìn lên, tôi sẽ ở đó", Gabriel Oak nói như vậy khi cuối cùng có được Bathsheba[6]. Câu nói này tóm tắt lý tưởng về tình yêu đương – bầu bạn. Nó ắt hẳn sẽ dội một gáo nước lạnh vào bầu nhiệt huyết của những nghệ sĩ hát rong đường phố thời trung cổ, những người xem yêu đương là hoàn bị, và đời sống gia đình là báo ứng của ái tình.
Trái ngược với quan điểm cho rằng chính các nghệ sĩ hát rong đường phố phát minh ra ái tình, nhiều người xem yêu đương là một hiện tượng phổ quát. Đây là mâu thuẫn giữa phái "bản chất luận" và phái "kiến cấu luận". Bản chất luận cho rằng yêu đương là một trong bốn bước ngoặt vĩ đại, nội tại và không thể tránh khỏi để định hình con người (bên cạnh được sinh ra, có con, và chết). Kiến cấu luận thừa nhận rằng yêu đương, cùng với tất cả sự đa dạng về đối tượng và phương thức của nó, là một trong những cảm xúc trung tâm của con người. Tuy nhiên, cách thể hiện tình yêu lại là một vấn đề được quyết định bởi hoàn cảnh lịch sử. Cả hai phái đều đúng, vì người ta đã luôn yêu – có nghĩa là trở nên đắm đuối, khát khao, ám ảnh ở mức độ nhất định, đủ để mất ngủ và để quên hết những công việc thường ngày. Nhưng cách thể hiện trạng thái yêu đương, sự liên kết giữa yêu đương với những dạng tình yêu khác, hay những kỳ vọng từ hai phía trong cuộc tình, thì rất đa dạng.
Một người đàn ông Hy Lạp cổ đại có thể si mê một chàng trai trẻ, nhưng tình dục không phải là vấn đề duy nhất, bởi vì nhiệm vụ của người tình là giáo dục tình nhân về quân sự và chính trị, và dìu dắt chàng trai trên bước đầu sự nghiệp. Những chuyện tình của Plutarch minh họa sức phá hoại kinh khủng của sự cuồng si tình dục – ví dụ như câu chuyện cô gái Aristocleia và chàng trai Actaeon bị xé xác bởi những kẻ theo đuổi cố giành giựt người tình. Những người tình của Shakespeare cũng điên cuồng với ái tình. Họ hiếm khi tự kiềm chế cho đến khi tìm được linh mục để làm đám cưới. Fielding và Richardson mô tả những cuộc mây mưa náo loạn trong đụn rơm và mối đe dọa hiếp dâm không ngần ngại. Sau cơn động dục cuồng loạn, và cũng chính vì sự cuồng loạn, nảy sinh ý tưởng về một cuộc sống yêu đương-bầu bạn bình đẳng cùng với sự tăng lên về giáo dục của nữ giới, mang đến những mẫu hình mới cho tình yêu. Có thể thấy một số mẫu hình như thế ngay trong văn chương cổ đại, như là khi Homer vẽ ra phân cảnh tiễn biệt cảm động giữa Hector và Andromache, trong đó người anh hùng phải cởi chiếc mũ bảo vệ của anh ta ra bởi vì những chiếc lông vũ phe phẩy của nó làm hoảng sợ đứa con trai nhỏ trong vòng tay của Andromache. Một ví dụ khác là cuộc hôn nhân giữa Penelope và Odysseus, một hình thái của lòng chung thủy sắc son. Tính đa cảm tân thời mang tình bằng hữu thêm vào sự đắm đuối ái tình của hôn nhân như là một sự tiếp nối hợp lý, và một dạng nền kinh tế cảm xúc được sinh ra: đam mê, tình bạn, sự đồng hành, đối tác, sự chăm sóc dung dưỡng và sự cần có, những thứ mà trước đây được mang đến bởi những mối quan hệ khác nhau, bây giờ có thể đến trong một gói gọn gàng duy nhất gọi là "vợ/chồng".
Nhưng sự kết hợp tân thời của ái tình và tình bằng hữu dù đã trở thành lý tưởng của chúng ta lại thường tỏ ra là một hỗn hợp không ổn định. Tính ám ảnh của yêu đương không thể hiểu được nếu không bàn tới tình dục, cũng không thể hiểu được tình dục mà không bàn tới giới tính. Tình dục là sự thôi thúc và hành vi thể chất, giới tính là sự phân loại xã hội và tâm lý. Thất bại trong việc kết hợp hai khái niệm này một cách gọn gàng chặt chẽ là mảnh đất mầu mỡ cho hạt giống rắc rối nảy mầm. Tình yêu đương-bầu bạn không loại trừ tình yêu sắc dục, nhưng nền tảng của nó và mục đích của nó rất khác. Nó là về một dự án chung cho một gia đình - cái mà về cơ bản là một doanh nghiệp nhỏ, trong đó có hoạt động mua bán, lập ngân sách và quản lý những người khác (thường là trẻ em), và vận chuyển và lưu trữ, và tiết kiệm và chi tiêu, và giải quyết các vấn đề như rò điện, cúp nước, ốm đau. Khác biệt giới tính, được tạo hình và củng cố bởi các áp lực xã hội, cung cấp một sự phân chia lao động hợp lý cho những hoạt động này: người chồng đi ra ngoài làm việc, người vợ chăm sóc con cái và nhà cửa. Nhưng trong những năm gần đây, sự phân chia đó, và ngay chính sự khác biệt giới tính, đã bị chỉ trích một cách cay nghiệt, càng bị chỉ trích dữ dội hơn bởi vì – trái ngược với kỳ vọng và nguyên tắc của các nhà nữ quyền – khoa học dường như chỉ ra rằng trong cuộc cạnh tranh giữa di truyền và môi trường[7], di truyền có một vai trò không thể chối cãi và không hề nhỏ trong việc định hình hành vi tính dục và các đặc điểm giới tính. Những nhà nữ quyền ôn hòa nói rằng điều này không có nghĩa là một định mệnh rạch ròi: con người là những sinh vật có lý trí và vì vậy có thể điều chỉnh sinh học theo hướng công lý, như khi ta kiểm soát sự nóng giận và sự ích kỷ. Nhưng những người khác lại buộc tội khoa học là thành kiến, và khoa học cố che giấu đằng sau vỏ bọc tính toán thống kê một âm mưu lịch sử chống lại phụ nữ. Cả hai phía đều có phần nào sự thật.
Một điểm quan trọng đối với nhiều người đàn ông là sự khác biệt giới tính giúp giải thích hầu như phần lớn của các vấn đề rắc rối của chế độ hôn nhân một vợ một chồng. Họ nói rằng mối quan hệ dị tính được định hình phù hợp với lợi ích của phụ nữ, những người kiểm soát và hạn chế lượng tình dục mà nam giới được hưởng. Nếu điều này đúng thì cũng khá là tự nhiên; đối với phụ nữ, khi mang thai và sinh đẻ, mức đầu tư kỳ vọng của họ vào tình dục lớn hơn một người đàn ông nhiều. Các biện pháp tránh thai an toàn và hiệu quả là một tiện ích rất hiện đại, mà những thói quen và đòi hỏi cũ thì rất chậm thay đổi. Có lẽ chính vì lý do này mà mại dâm một người bạn hữu hiệu và bền chặt của hôn nhân, mặc cho sự bủa vây công kích của tính đạo đức giả.
Bản chất thất bại tổng quát của tình yêu đương-bầu bạn tân thời có thể được đo bằng tỷ lệ tan vỡ cao trong các mối quan hệ này. Ly hôn ở phương tây hiện nay ở mức bốn mươi phần trăm – tỷ lệ này còn cao hơn trong những cặp đôi không cưới xin – và còn nhiều cuộc hôn nhân đang được duy trì nhờ vào sự thỏa hiệp gây thiệt thòi cho một hoặc cả hai người. Nguyên nhân thường được quy kết cho bản tính của đàn ông. Từ lý thuyết phân tâm học của Freud, nhiều người nói rằng đàn ông chịu đựng một vết thương tâm lý gây ra bởi phải tách rời khỏi người mẹ, và bởi sự bất lực khi đàn ông không thể đẻ con và cho con bú. Một vài tác giả, nổi bật là Sheila Sullivan trong tác phẩm Nghiêng ngả vì tình[8], gọi đó là "sự bất lực nhục nhã". Họ tuyên bố rằng vết thương này là duyên cớ gây ra những thứ phụ nữ chán ghét ở đàn ông, nhất là sự non nớt về cảm xúc, sự thiếu thốn giao tiếp tinh thần, tính không chung thủy, tính thù ghét đàn bà ngấm ngầm hoặc chủ động, và – ở mức cực đoan – tính bạo lực. Theo họ, chính những điều này đến lượt chúng làm cho dự án tình yêu đương bầu bạn bình đẳng phải trật bánh ngã nhào.
Ngay cả khi bỏ qua những lý thuyết không đáng tin cậy của Freud, tình yêu đương bầu bạn cũng rất khó đạt được, và không một người đàn ông nào sẽ chịu thừa nhận rằng cái được gọi là "tính phi đạo đức thô bạo của sự tồn tại nam tính" phải chịu trách nhiệm cho hành vi của anh ta trong các mối quan hệ. Có lẽ vấn đề nằm ở chỗ khác: chính là ở nỗ lực của xã hội nhằm quản lý, hạn chế, phủ định, điều hướng, cấm đoán, dẫn dắt và thao túng khái khao yêu đương và tình dục. Chính gông cùm chết chóc của thể chế – nhất là tôn giáo – giải thích tại sao yêu đương lại là một vấn đề. Nó thật sự trở thành một vấn đề chỉ khi nó bị cầm tù và đói khát, như là trong hệ thống "giá trị gia đình" của chế độ hôn nhân một vợ một chồng, hay những thái độ cấm đoán đối với sự thể hiện đa dạng của dục vọng. Khi bị cầm tù và đói khát, eros trở nên hủy diệt, và điều này lại kích động những kẻ rao giảng đạo đức, theo sự thông thái tự phong của chúng, ra sức cầm tù và hạn chế chế tình yêu hơn nữa, như hàng ngàn câu chuyện tiểu thuyết và phim ảnh đã cho thấy. Nếu muốn thực nghiệm tân thời của tình ái ân bầu bạn được thành công, cần phải giải phóng nó khỏi những sắp đặt của thể chế đã được tạo ra từ nhiều thế kỷ trước, dành cho một loại quan hệ khác – mối quan hệ một vợ một chồng theo truyền thống Công giáo có tính thực dụng và kinh tế – trong đó cả yêu đương lẫn bầu bạn đều chẳng quan trọng.
Nếu nói rằng những kẻ không biết yêu lại hay cắt nghĩa tình yêu, thì đó là nửa đùa nửa thật. Không có khoa học yêu đương bởi vì nó quá là đa dạng và dễ thay đổi để mà nhét vào cho vừa một lý thuyết. Yêu cũng giống như leo lên đỉnh Everest, người ta lê lết cực nhọc suốt đường dài, và kết thúc hành trình bằng cách cắm trại trên đỉnh núi, hoặc trên nửa chừng sườn núi, hoặc bất cứ chỗ nào mà mức độ thỏa hiệp của họ cho phép họ trèo đến nơi. Có người lên đủ cao để thấy phong cảnh của tình yêu, ai chẳng biết là diễm lệ tuyệt mỹ, vì ai cũng từng thấy nó lờ mờ trong những giấc mơ. Và đó chính là lý do của lễ hội thánh Valentine: giấc mơ của tình yêu. Quả là đời sẽ đắng chát nếu giấc mơ đó không bao giờ trở thành hiện thực, hoặc nếu những trải nghiệm chính về tình yêu của đời ta – storge, pragma, ludus, agape – không lâu dài và ổn định đủ để cứu rỗi ta khi cơn bão eros và mania quét qua – mang đến sung sướng tột cùng, và để lại đằng sau hoang tàn đổ nát.
Phản Chiếu dịch.
[1] Trong tiếng Anh, weakness (tính yếu đuối, khuyết điểm) còn có nghĩa là tình trạng đặc biệt yêu thích, say mê điên cuồng hay nghiện một điều gì đó đến mức không thể cưỡng lại. Ở đây tạm dịch là "cuồng si".
[2] Courtly love, chỉ các mối tình thịnh hành trong văn chương thời trung cổ ở Pháp giữa các hiệp sĩ và các quý cô. Trong đó các hiệp sĩ sẽ tiến hành các cuộc phiêu lưu mạo hiểm để lấy lòng các quý cô của mình. Don Kixote: Nhà quý tộc tài ba xứ Mantra là một tiểu thuyết trào phúng nổi tiếng về loại tình yêu này. Tạm dịch là "phiêu lưu tình ái".
[3] Thomas Hardy (1840-1928), nhà văn.
[4] Ý nói thời gian từ năm 1837-1901.
[5] Jane Austen (1775-1817), nữ nhà văn sống trong khoảng thời gian trước Thomas Hardy và thời đại Victoria.
[6] Nhân vật trong một tiểu thuyết của Thomas Hardy, Far from the Madding Crowd.
[7] "Nature and nurture", tạm dịch "di truyền và môi trường" là một vấn đề khoa học gây tranh cãi xoay quanh câu hỏi yếu tố nào quyết định các đặc điểm hành vi của con người: các yếu tố di truyền (nature) hay các yếu tố bên ngoài (nurture).
[8] Falling in Love.