Gương trong soi mặt, nghệ thuật soi hồn.
GEORGE BERNARD SHAW
Có người từng khảo sát cách nghĩ của thanh thiếu niên về các bảo tàng, trung tâm triển lãm nghệ thuật và nhà hát. Không ngoài dự đoán, kết quả cho thấy hầu hết bọn trẻ ghét những nơi này. Dường như chúng cho rằng mấy chỗ đó rất nhàm chán, và chỉ dành cho những ông bà già lắm tiền. Khảo sát này kết luận rằng nếu các trung tâm nghệ thuật mở thêm các quầy cà phê và các hoạt động vui chơi giải trí, hoặc cắt ngắn các tiếp mục biểu diễn, thì thanh thiếu niên có thể sẽ lui tới nhiều hơn.
Thật là may vì chẳng ai buồn quan tâm tới khảo sát này. Những kết luận của nó không có gì mới mẻ, vì xưa nay vốn dĩ đã vậy. Nếu các trung tâm triển lãm và nhà hát mà làm theo cách trên để thu hút bọn trẻ, thì chắc chắn sẽ thất bại, và còn bị tẩy chay bởi các tín đồ nghệ thuật. Nghệ thuật đã, và sẽ mãi là cách tiêu khiển của thiểu số. Henry Miller nói: “Nghệ thuật chẳng có ý nghĩa gì, ngoại trừ ý nghĩa cuộc sống”. Đa phần con người ta chỉ biết vế đầu của câu nói này thôi.
Đáng mừng là khi dân số tăng lên, thiểu số cũng trở nên đông đảo hơn. Kết quả là chưa từng bao giờ có đông người biết thưởng thức nghệ thuật như bây giờ. Những buổi triển lãm đông nghẹt khách tham quan, những buổi hoà nhạc kín cả khán đài. Nhờ đó, càng có nhiều người khám phá ra sự phong phú của khoái lạc và nội hàm mà nghệ thuật mang lại. Protust nói: “Dưới ánh sáng nghệ thuật, ta không chỉ nhìn thấy một thế giới duy nhất của riêng ta. Có bao nhiêu nghệ sĩ tài hoa độc đáo ở trên đời, thì thế giới của ta nhân lên bấy nhiêu lần, thành muôn vàn thế giới khác, cho ta thỏa sức trải nghiệm”.
Sự dung tục không phải là tư tưởng phổ quát trong giới trẻ, nhưng là một giai đoạn trong quá trình phát triển của nhiều thanh thiếu niên. Đối với sự khinh rẻ của bọn trẻ dành cho nghệ thuật, vấn đề thực ra không nằm ở nghệ thuật, mà nằm ở bản thân bọn trẻ. Không phải lúc nào chúng cũng sẵn sàng đón nhận những gì nghệ thuật mang lại. Một vài đứa trẻ sẽ dần dần cảm thấy cuộc sống cần có nhiều nội dung hơn, cần có nhiều hương vị hơn, đó là khi chúng sẽ lắng nghe lời mời chào của nghệ thuật. Pater nói: “Nghệ thuật đến bên ta không hứa hẹn điều gì. Nó chỉ mang lại sự trân quý tuyệt diệu cho từng khoảnh khắc trôi đi”. Lời mời chào của nghệ thuật, một lần đã chấp thuận, sẽ không bao giờ có thể chối từ.
Người ta vẫn nói đức tin là bảo chứng của chân lý, mà sự thật đâu phải vậy. Tuy nhiên, có một loại đức tin thân thuộc đối với nghệ thuật giúp bảo hộ chân lý. Khi sự đa cảm sâu sắc và cởi mở bén duyên với nghệ thuật, sự đa cảm đó sẽ được nuôi dưỡng bởi nghệ thuật, lĩnh hội từ nghệ thuật để trở nên sáng suốt. Như Pater từng nói, “Trên đời không có hai thứ giống nhau ngoại trừ trong con mắt của kẻ đui mù", thấu hiểu sự độc nhất và đặc thù của vạn vật được khắc hoạ trong từng bức vẽ, từng điệu múa sẽ giúp thấu hiểu sự độc nhất và đặc thù của từng nghịch cảnh đạo đức hay nỗi khổ cá nhân. Bằng cách đó, nghệ thuật khai hoá văn minh, bởi vì, như Shaw đã nói, nghệ thuật là tấm gương phản chiếu tâm hồn.
Có lẽ giới trẻ không trân trọng nghệ thuật bởi vì nghệ thuật luôn trẻ trung. “Nghệ thuật không biết dạy đời, nghệ thuật bất cần thực tế, nghệ thuật bất lực trước lý luận và sẽ bị bức tử bởi những bài giáo huấn” – Agnes Repplier đã từng nhận định như vậy, và nếu thay từ "nghệ thuật" trong câu nói của bà bằng từ "tuổi trẻ" thì cũng hoàn toàn chính xác. Nhiều người hiểu lầm rằng nghệ thuật chỉ là sự khoe mẽ tinh thần, rằng nghệ thuật khô khốc tiếng cười, rằng nghệ thuật không thay đổi được gì. Sự thật hoàn toàn trái ngược, và ai lĩnh hội được điều này là những người giàu có vô hạn về nghệ thuật.
Phản Chiếu dịch.