DÂN DO THÁI HỒI HƯƠNG SAU THỜI LƯU ĐẦY Ở BABYLON

Bối cảnh lịch sử

(Gần sông Babylon, ta ngồi ta khóc ta nhớ Sion (Tv 137)

Sau triều đại Salomon, nước Do Thái chia 2 miền Nam Bắc.

Sau một thời gian, đế quốc Assyria chiếm miền Bắc, bắt dân đi lưu đầy năm 722 trước công nguyên. Cho tới nay, nhóm dân này như mất tích không để lại dấu vết gì.

Còn miền Nam đa số thuộc chi tộc Giu đa, sau đó cũng bị đế quốc Babylon tới chiếm, phá đền thờ Giê ru sa lem, rồi bắt dân qua làm nô lệ cho họ.

Sau hơn nửa thế kỷ, cùng tiên tri Daniel và vài vị khác, dân chúng thống hối tội cũ (đã quên lề luật Chúa), và nhờ có bà Esther gốc Do Thái được vua tôn làm hoàng hậu khi hoàng đế Ba Tư là Cyrus chiếm đóng Babylon, họ đã được phúc trở về cố hương và xây lại đền thờ, vào năm 539. Dân lúc đó có khỏang 40 ngàn người (không kể đàn bà và trẻ con).

Khi Chúa phục hồi thịnh vượng cho Sion, Chúng tôi như người đang mơ…Ai gieo trong nước mắt sẽ gặt trong trong hân hoan (Tv 126).

Xây lại đền thờ

(Đời sống tại Babylon)

Năm 516, đúng 70 năm sau lời tiên tri của Isaiah, 20 năm sau khi đặt móng, Đền Thờ đã được thánh hiến. Đền thờ được hoàn tất theo hoạ đồ và kích thước của Đền Thờ mà Salomon đã xây. Tuy không còn ‘hòm bia 10 giới răn’ nữa, nhưng chắn chắn Thiên Chúa vẫn công nhận Đền Thờ này như là nhà của Người ở trần thế, để Dân Chúa có thể có nơi cử hành việc phụng thờ, gặp gỡ Người qua việc tế lễ và cầu nguyện.

Ta có thể nói : Qua nhiều thiên niên kỷ, người Do Thái được chứng kiến cảnh hưng vong của các đế quốc Assyria, Babylon, Ba Tư, Hy Lạp và Rôma, và sự diệt vong của nhiều dân tộc khác, trong khi chính họ, điển hình qua chi tộc Giu đa, nhờ được trang bị với một “quê hương di động”, nên đã sinh tồn. Họ đã đứng vững trước nhiều rủi ro khôn lường, các cố gắng nhằm cải đạo họ, các lưu đày phát vãng và trục xuất, và ngay cả các âm mưu tận diệt họ. Không những chỉ sống sót, họ còn giữ cho hoài niệm Giêrusalem luôn sống động và với một phép lạ lớn lao nhất trong hế kỷ 20, họ đã lại trở về cố hương xưa một lần nữa.

Từ đó, dân Do Thái phần lớn là thuộc chi tộc Giu đa ( con thứ 4 của tổ phụ Gia cóp ). Ta quen gọi là dân Giu dêu ( đạo Do Thái nay là đạo Judaism ).

Sau ít thời gian, Do Thái lại bị hết người Hy Lạp (từ năm 336) tới La Mã ( từ năm 63 ) cai trị ( Chúa Giê Su xuống thế và chịu chết dưới thời quan Phi la tô của La mã ). Đền thờ lại bị phá hủy vào năm 70 sau công nguyên.

Sau đó là cả 2 ngàn năm lưu vong khắp Châu Âu. Mãi tới năm 1948, họ mới được Liên hiệp quốc cho về lập quốc trở lại, sau dịp bị Đức quốc xã giết gần 6 triệu nhân mạng.