Chúng tôi sinh viên khóa xây dựng nhập học năm 1980 đều tự hào ngôi trường nổi danh được lọt vào top đầu theo truyền miệng dân gian: “ Nhất Y nhì Dược, tạm được Bách khoa “ Số đông vào trường được tuyển từ hệ phổ thông, một số từ nguồn ĐH Dự bị hoặc số ít đã vào trường các khóa trước nhưng do chiến tranh Biên giới Tây Nam phải tòng quân nhập ngũ.
Đại học Bách Khoa tp HCM là trường đầu tiên được trang bị máy tính IBM 360 để quản lý sinh viên, lập thời khóa biểu, theo dõi học tập … Những năm đầu thập kỷ 80 điều này rất hiếm có ở các trường đại học khác. Thời khóa biểu được tối ưu hóa nên đã sắp xếp chúng tôi thay đổi phòng ốc trong các tiết học. Chúng tôi hầu như phòng nào cũng được học, tất cả các dãy nhà trong khuôn viên trường đều được khám phá. Tôi còn nhớ hôm học giải bài tập vật lý chúng tôi đã tập trung tại phòng học dãy B4, chờ hoài chẳng thấy thầy cô nào đến lớp. Đang nghĩ chắc thầy cô bận việc nên chuẩn bị ra về. Chợt thấy 1 bạn (cô) ngồi bàn đầu bước lên bục giảng. Lời đầu tiên cô đề nghị cả lớp nghiêm túc trong học tập. À, thì ra cô giáo đã ngồi chờ sẵn tự bao giờ. Chắc cô sợ lũ học trò lớn tuổi tụi tôi quậy phá ?. Anh Đô Lương ngồi cạnh tôi quay sang, cả 2 nhìn nhau mỉm cười hiểu ý. Đó là cô Bảy (chúng tôi vẫn nghĩ là sinh viên ai ngờ cô giáo trẻ thế - Năm đầu chưa quen mặt với tất cả các bạn). Không biết anh Đô Lương có còn nhớ ?
Môn học Fortran là ngôn ngữ lập trình cho máy IBM lúc bấy giờ. Năm cuối trường rà soát chương trình thấy chúng tôi chưa học môn này nên nhét vào cho đủ ?. Tôi “ sợ “ môn này vì năm cuối nhiều đồ án môn học không đủ thời gian tìm hiểu, nên kết quả cuối cùng các bạn đều biết. Ở Bách Khoa ngày ấy môn nào đã học thì phải thi - thi rớt phải thi lại, đạt mới xong nên có quan niệm điểm 5 là điểm 10 của chúng tôi … Tôi không biêt mình bao nhiêu điểm trong môn này, nhưng đoán chừng nằm trong số phải thi lại. (Thầy chỉ cho biết cả lớp chỉ chừng 5, 6 người khỏi thi lại !). Thế nhưng phút cuối khi công bố số điểm lại là 1 thành tích đáng nể: không ai dưới 5. Một kỳ tích hy hữu hiếm có ở các môn khác. Tôi lại càng thán phục hơn khi trong lớp có số bạn nhận đồ án tốt nghiệp chạy (viết ) bằng chương trình máy tính.
Thực tập : Mỗi năm có nhiều đợt thực tập với phương châm vừa học vừa làm .
Thực tập xưởng trong trường : chúng tôi được diễm phúc tham quan, thực tập các xưởng cơ khí từ luyện kim, hàn, mài, dũa, rèn, dập, đúc … Được giới thiệu công xưởng của trường . Lúc đó Khoa Cơ khí có nhận đóng thùng cho những chiếc xe tải mới nhập. Hàn cũng không khó nhưng để đạt được kỹ thuật hàn vảy cá là điều không dễ. Nhớ đến bạn Trọng Quang là người thích khám phá … các bạn nhường cho que hàn. Kết quả là đôi mắt Quang đỏ và sưng húp trong ngày hôm sau. Trải qua các môn rèn, dũa … tôi mới nhận ra rằng “ dũa” là môn thủ công khó đạt nhất .
Thực tập đo đạc : Vẽ địa hình và cắm cọc thi công công trình chúng tôi gắn bó với nhiều kỷ niệm tại trường Đo đạc Trung Ương 2 ở Long Thành. Được phân chia thành các tổ sử dụng máy kinh vĩ và thủy bình thực hiện đo vẽ bản đồ địa hình với mỗi cạnh 500m. Địa hinh tương đối phức tạp nằm trong các khu vườn cây của dân nên cũng có vài chuyện xích mích nhỏ với dân đã xảy ra. Ngày đo đạc ghi chép số liệu, tối về chong đèn tính toán và vẽ lại trên giấy. Cuối đợt bố trí cắm cọc thi công giả định 1 đoạn đường có yếu tố đường cong với góc độ cho sẵn.
Các thầy : Nguyễn Đình Huân , Lê Văn Việt , Nguyễn Hữu Uy , Lê Văn Nam
( Bộ môn Cầu đường )
Thực tập công nhân tại nhà hát Hòa Bình Quận 10:
Lúc đó thi công phần sân khấu tự xoay nhà hát và đóng cọc bằng búa diesel. Công trường này chúng tôi được bố trí thực hiện: công tác cốt thép, ván khuôn, trộn đổ bê tông đúc cọc, rồi vận chuyển cọc bê tông ra bãi đóng. Tôi còn nhớ mãi việc được phân công đục bê tông đông cứng trong cánh máy trộn bê tông. Lòng trộn rộng chỉ đủ 1 người vào, thay phiên chui vào, chui ra để đục những tảng bê tông đông cứng trên cánh trộn. Rút kinh nghiệm sau này khi công tác lúc kiểm tra công trường tôi thường xuyên quan tâm đến thiết bị trộn, kiểm tra và nhắc nhở vệ sinh lòng trộn sau khi xong việc. Thi thoảng còn phải bốc vác xi măng khi công nhân thiéu. Chúng tôi cũng nhận được chút ít tiền bồi dưỡng rủ nhau đi ăn chè, xem phim .
Thực tập tốt nghiệp tại các đơn vị đặc thù của ngành : Chúng tôi nhận được tình cảm dìu dắt và rất tận tình của bậc đàn anh chị - đã tốt nghiệp các khóa trước (truyền thống của trường Kỹ thuật Phú Thọ và Công chánh Bách khoa). Thực ra thời gian thực tập tốt nghiệp khá nhàn. Chúng tôi tranh thủ đi thư viện đọc thêm tài liệu để chuẩn bị cho đề tài tốt nghiệp của mình. Sau khi ra trường, trong đơn vị công tác tôi cũng được phân công hướng dẫn các sinh viên thực tập, nên quan điểm của tôi muốn dành cho các em nhiều thời gian hơn. Chỉ giới thiệu sơ đồ tổ chức cơ quan, cho các em đi tham quan các công trình đang thi công – ghi nhận lại những ý kiến khách quan về công trường. Hướng dẫn cho các em bộ định mức , đơn giá và cách lập dư toán theo cách đơn giản nhất.
Tinh thần học tập lúc đó rất cao: Có lớp phó học tập ( bạn Đinh Thành Phương ). Còn nhớ bạn Nghiêm Xuân Thiên Sửu rất giỏi toán thường được tập thể lớp nhờ giải các bài toán khó. Chúng tôi đùa vui: “ mỗi bài toán khó là Sửu thêm 1 sợi tóc bạc “. Chắc các bạn còn nhớ với mái tóc trắng đặc trưng của bạn: Nhìn từ sau cứ ngỡ ông già nhưng nhìn phía trước thì “ mặt búng ra sữa “. Học giỏi nhưng bạn không quan tâm đến những môn học khác… sau đó rời khỏi trường, rồi xuất cảnh.
Các Thầy Cô chúng tôi rất nhiệt tình trong công tác giảng dạy. Tôi thật ấn tượng với trí nhớ siêu phàm của thầy Hiệp: môn học bê tông vốn nhiều công thức, các hệ số… Cách tính phải dựa sách tra bảng. Tôi còn nhớ khi dạy, thầy chỉ cầm vài viên phấn khi lên bảng, thầy viết làu làu như cuốn sách đặt sẵn trong đầu thầy vậy. Lúc duyệt đồ án môn học bê tông lại càng thán phục hơn, tôi phải mất 1 ngày mới làm xong. Thế mà khi bản vẽ trình lên, thầy không cần xem nhiều. Thầy kiểm tra diện tích thép đã tính hợp lý chưa ? Trong nháy mắt bút đỏ của thầy đã xoẹt xoẹt, ghi chú bao nhiêu thanh thép loại gì. Tôi không thể tin nổi khi về nhà tra lại bảng cốt thép ! Hợp lý trên cả tuyệt vời .
Việc học khá vất vả, nhưng bù lại lúc đó được tiền phụ cấp, được lãnh gạo, nhu yếu phẩm. Hàng tháng lớp phó đời sống ( bạn Huỳnh Anh Tuấn ) chịu khó đại diện lớp đi nhận rồi phân phát lại cho từng bạn.
Thời gian qua nhanh nay cũng đã 40 năm qua. Hôm nay nhiều người nghỉ hưu, về với đời thường. Chúng tôi cũng đã trải bao nhiêu thăng trầm trong bước trường đời. Nhiều thầy cô, bạn bè đã ra đi. Nhiều bạn có điều kiện cuộc sống tốt hơn các bạn khác. Chúng tôi cũng đã từng chia sẻ giúp đỡ với các bạn gặp khó khăn trong những năm qua.
Chúng tôi luôn kính trọng và rất biết ơn Quý Thầy Cô giảng dạy. Ngôi trường trong thời bao cấp khó khăn chồng chất nhưng tình bạn luôn nêu cao. Tình thầy trò luôn được đề cao kính trọng. Thầy cô hết mực quan tâm đến sự tiếp thu bài vở, sẵn sàng giải đáp, hướng dẫn không quản đến thời gian, giờ giấc. Tình cảm ấy vẫn còn lưu giữ mãi.
Cách học của các bạn sinh viên ngày nay có những bước tiến quan trọng. Thay đổi sang học theo tín chỉ, bạn nào giỏi được tốt nghiệp sớm. Đào tạo thế hệ kỹ sư hiện nay: trẻ, giỏi, năng động, nhiều kỹ năng hơn chúng tôi, nhưng nhiều bạn trẻ đã tâm tư mơ ước có được sự kết nối yêu thương: Mong sao có dịp tổ chức họp lớp để cùng nhau ôn lại những kỷ niệm xưa “ một thời đáng nhớ “.
Nhìn lại chặng đường đã qua chúng tôi tự hào về ngành kỹ thuật xây dựng của mình. Đã cống hiến cho đời trong suốt thời gian 40 năm qua: Xây dựng nhiều công trình cầu đường, cảng biển, sân bay, nhà xưởng, các tòa cao ốc … góp phần kiến thiết đất nước ngày càng phát triển, mạnh giàu, cuộc sống ngày càng tốt đẹp, ấm no và hạnh phúc.