Mặc dù quán nằm ngay dưới chân quả núi nhỏ duy nhất giữa lòng thành phố mà nhiều người vẫn không biết, thậm chí còn cho rằng nó không tồn tại nữa. Nhưng có một số thì vẫn thường xuyên đến đấy. Họ bị quyến rũ bởi cái vẻ tuềnh toàng, hơi hoang dại, và nhất là cái không khí lúc nào cũng chứa đầy những yếu tố bất ngờ của nó. Khách quán tạp nham, đủ hạng nhưng được cái hạng nào cũng đầy vẻ siêu thực, đầy mộng mơ, đầy những toan tính vĩ đại. Đến một số ông, lúc đầu đến quán chỉ cốt để trốn tránh sự tẻ nhạt ngày càng dày lên trên mặt vợ cũng dần bị lây bệnh. Nhiều nhất vẫn là cánh văn nghệ sĩ, những sinh viên ra trường lâu năm nhưng chưa tìm được việc làm. Đôi ba kẻ cô đơn hay vừa bị phụ tình. Một vài người giàu trí tưởng bở hoặc rỗi hơi...
Chủ quán là một người đàn bà hiện rất khó đoán tuổi nhưng chắc chắn đã có một thời xuân sắc huy hoàng và đến giờ, dù thời gian đã làm phôi pha đi nhiều nhưng những nét đẹp thiên phú vẫn còn phảng phất trên gương mặt chị. Người đàn bà ấy có cặp mắt thật buồn. Một cặp mắt buồn. Đó là điều tạo nên sự đặc biệt, làm cho người đàn bà ấy khác hẳn những người đàn bà khác. Phần lớn những người đàn bà ở thành phố này không bao giờ có vẻ buồn. Họ chỉ quen biểu lộ trạng thái tình cảm của mình ở hai dạng: Hoặc là hớn hở. Hớn hở vì chồng vừa được cân nhắc; Hớn hở vì ngày mai cơ quan có liên hoan hoặc được một nơi nào đó mời dự hội nghị tổng kết; cũng có khi hớn hở chỉ là vừa mua được từ một con mẹ nhà quê nào đó cặp gà với giá rẻ. Trạng thái thứ hai là bực - Nỗi bực không gắn với hy vọng, nó gắn với sự tưởng- đa phần là tưởng bở: tưởng tháng này được tăng mức công tác phí hoặc lên lương; tưởng cuối năm vừa rồi, ông H đồng hương được bổ nhiệm thay ông K người huyện khác; tưởng thằng con năm nay thi đỗ đại học; tưởng mưa chỉ mấy ngày rồi nắng; vân vân... Và cái sự "hớn hở với tưởng" ấy nếu không đạt thì bực mình - cái bực như vậy rõ ràng có đối tượng, được khoanh vùng, dễ chỉ điểm, dễ chữa và nhất là chẳng mấy khi biến thành kinh niên. Còn nỗi buồn thì khác. Nỗi buồn gắn với hy vọng mong manh. Nó mung lung; nó vu vơ; nó khó chữa và thường chỉ thấy ở những người rỗi hơi hoặc vĩ đại. Vậy người đàn bà chủ quán thuộc loại nào? Có thể là rỗi hơi. Bởi chị bày ra cái quán này thì thu nhập được đáng bao nhiêu trong khi đó phải ngồi suốt từ chiều đến có khi quá nửa đêm vì khách có đôi kẻ vẫn chưa chịu đứng lên. Có thể là vĩ đại bởi chị đang quên mình để phục vụ cho đám khách vĩ đại, bao dung họ, chăm chút họ và tạo cho họ có chỗ để dãi bày? Thế thì có lẽ là cả hai.
Quán tuềnh toàng, hầu như chả có hàng quà gì đáng giá: Một lọ kẹo vừng bỏ lẫn với kẹo lạc; vài túm chuối; một hũ rượu trắng có lẽ tự cất lấy; dăm bảy chiếc bàn nhựa mặt két nước chè và rất nhiều ghế long chân. Nhưng điều đó hầu như chả làm ai phải bận lòng. Cánh nhà văn, nhà viết kịch kéo nhau đến quán thường chỉ gọi đĩa kẹo lạc, một ấm nước chè và thường là pha cho đến khi bã chè chín nẫu mới thôi. Và họ nói với nhau rất nhiều về các dự định, về những tác phẩm đang thai nghén. Tất nhiên đó là những tác phẩm để đời, tác phẩm mà ngườì đương đại rất ít hiểu, hoặc có khi hiểu mà không dám dùng, nhưng lớp hậu sinh sau này chắc chắn sẽ tôn vinh nó, coi đó là chuẩn mực của nghệ thuật muôn đời.
Cánh nhạc sỹ ồn ào hơn. Họ thường gọi rượu, uống theo kiểu "Xếch" - nghĩa là uống suông, nhưng uống nhiều và khi đã ngà ngà, họ lắc lư, họ lim dim mắt, vung vẩy tay và có khi hứng lên, họ xếp mấy chiếc ghế lại làm chỗ đứng hát những sáng tác mới. Mấy chàng nhà thơ hút thuốc nhiều, loại thuốc tất nhiên là rẻ tiền nhất, đọc thơ, có kẻ còn viết chúng ra giấy hoặc vỏ bao thuốc rồi đem găm chúng lên những tấm liếp quây quanh quán. Cứ sau mỗi ngày, người đàn bà lại trân trọng gỡ chúng xuống, xếp thành tập. Lúc đầu chị ém chúng xuống dưới khay kính đựng thuốc lá. Sau nhiều quá, chị buộc những bài thơ thành từng cuộn và đem treo lên ở tất cả những chỗ có thể treo được. Và những buộc như vậy cứ mỗi ngày một nhiều, lủng lẳng, lục cục va vào nhau mỗi khi có cơn gió thổi qua, vừa thách đố, khích lệ lại vừa buồn đến nao lòng; nó gợi cho người ta nhớ đến những chiếc quan tài treo theo tục thiên táng của người Rục.
Nhưng cũng có cái không thể buộc lại và đem treo lên được. Ví như ánh mắt của những chàng sinh viên sau một ngày lang thang đi gõ cửa các nơi, thất vọng trở về đây ngồi vì không tìm được việc làm. Ví như mùi nước hoa của một vài cô gái không biết từ đâu dạt đến. Họ tô môi, kẻ mắt khá đậm, lúng liếng gọi dăm điều thuốc, lúng liếng nhả khói, lúng liếng đưa tình và rồi sau rất nhiều hạt dưa bị cắn vỡ, họ bỏ đi cùng với cái trề môi đầy khinh bạc.
Cả lời thề thốt của những cặp tình nhân cũng không thể gói lại và treo lên; hoặc do chúng quá thiêng liêng; hoặc do chúng quá tầm thường, quá ít sự đáng tin cậy, hay cũng có thể chúng mang quá nhiều yếu tố thực tế chăng? Bởi ở đây tất cả những gì quá thực đều không thể tồn tại. Có hôm, đến quán là một người đàn ông và một người đàn bà. Người đàn ông bệ vệ, đầy vẻ quyền uy và đầy vẻ thoả mãn. Người đàn bà cố làm ra vẻ tự nhiên nhưng ánh mắt rõ ràng là của kẻ phụ thuộc. Người đàn bà kéo hai chiếc ghế ra xa nơi cánh văn nghệ sĩ ngồi rồi hỏi người đàn ông về vợ của anh ta và cách giải quyết tình thế. Chị ta khóc. Người đàn ông cuống lên, đánh mắt nhìn quanh, cái vẻ đường bệ, đầy quyền uy biến mất. Anh ta thẽ thọt thề bồi. Người đàn bà hình như đã quá quen với trò đó, mặt chị nghiêm lại: Anh phải bỏ bà ta, anh phải giết... Người đàn ông rúm lại, còn người đàn bà thì xù lông. Quá trình phân hoá đàn bà thành đàn ông và ngược lại, diến ra với tốc độ chóng mặt. Bi kịch bị đẩy dần lên đến đỉnh điểm. Nhưng chính tại đỉnh điểm này mọi sự lại chợt đâu vào đấy. Người đàn ông tỏ thái độ dứt khoát. Người đàn bà sau một hồi sụt sịt lại trở về vẻ thẫn thờ. Sự việc được vãn hồi dưới hình thức một màn cải lương nhạt theo sự dàn dựng của người đạo diễn vô hình luôn tồn tại một cách bí hiểm để giữ nhịp điệu và hơi thở cho cái quán này.
Người phụ nữ chủ quán hình như đã quá quen với bầu không khí đầy bất trắc ấy. Và có thể chính chị cũng là một phần của nó. Có hôm mưa to ngay từ chiều rồi kéo dài luôn tới khuya. Nhưng quán vẫn sáng đèn. Người đàn bà vừa lúi cúi đóng lại những chiếc ghế long chân, vừa ngắm những buộc thơ, lắng nghe tiếng lộp bộp va nhau của chúng và ánh mắt đã buồn càng buồn thêm...
***
Rồi bỗng một ngày, tất cả tự dưng biến mất: Túp lều tuềnh toàng, những chiếc bàn mặt két nước chè với rất nhiều ghế long chân, những buộc thơ và cả người đàn bà có cặp mắt buồn...
Có người bảo rằng quán đã bị dỡ đi sau khi thành phố mở một chiến dịch làm trong sạch môi trường, giữ vẻ đẹp cảnh quan cho khu danh thắng.
Có tin đồn, người đàn bà chủ quán sau khi được các thi sĩ đồng ý gán đứt những sáng tác của họ để trừ nợ tiền chè thuốc, đã mang những buộc thơ lên Hà Nội và được một nhà xuất bản có uy tín nhận in. Tập thơ bán rất chạy, người đàn bà trở nên rất giàu có đã mua một biệt thự cạnh Hồ Tây, sống ở đó và không về nữa.
Lại có người khẳng định, một gã đàn ông sau mấy năm chiều nào cũng đến ngồi ngắm trộm đôi mắt buồn của cô chủ quán, bỗng dưng một đêm hoá điên đã nổi lửa thiêu trụi tất cả. Họ còn kể rằng, chiều hôm sau khi những nhà thơ tìm đến không thấy còn quán đã lang thang rủ nhau lên núi ngồi khóc. Không còn vỏ bao thuốc lá, cũng không còn nước chè pha loãng, họ lấy nước mắt làm mực để viết những câu thơ mới làm lên vách đá. Cho đến tận bây giờ, những vần thơ xiêu vẹo ấy vẫn còn được lưu lại, run rẩy ngân mỗi khi chiều xuống.
Chả biết tin ai.