HỒN HẠC TRẮNG

Ngày xưa, khi mà nơi con sông Đáy đổ ra biển còn là một vùng bãi hoang sơ, lau sậy mọc um tùm, có một cô gái nghèo mồ côi cả cha lẫn mẹ sống trong một túp lều dựng tạm trên một doi cát nhỏ. Hàng ngày cô kiếm sống bằng nghề cất vó bắt những con cá, con tép, đem về đổi lấy gạo cho những người dân ở trong xóm xa. Một hôm đang mải mê lội dọc triền sông tìm chỗ nước nông thả vó, cô bỗng nhìn thấy một con chim lạ, gầy guộc, chẳng biết từ đâu rơi xuống mắc trên một cành sú mọc sát lợi nước. Thương con chim mồ côi, cô cổi áo bọc cho chim và đem về nuôi. Được cô gái nghèo chăm sóc, con chim lạ lớn nhanh như thổi và chẳng mấy tháng chim đã hiện rõ là một chú hạc với bộ lông trắng như tuyết. Hạc trắng cảm được cái ơn cứu mạng nên tỏ ra rất quyến luyến cô gái. Hàng ngày, khi cô gái xách vó ra bãi sông, hạc trắng cũng bay theo và thường là bay từng đoạn ngắn như muốn dẫn đường cho chủ. Cô gái đi theo hạc trắng và dần nhận ra từ ngày có hạc, việc kiếm sống của cô trở nên dễ dàng hơn. Chim hạc đậu xuống bãi sông nào là khi cô thả vó kéo lên, vó đều nặng tôm tép như có người lùa chúng vào vậy. Cô gái ngạc nhiên nhưng cũng không để ý tìm hiểu xem tại sao. Cho đến một ngày kia giữa lúc đang cất vó bên sông thì bất ngờ từ phía cửa biển có cơn giông lớn nổi lên và một ngọn sóng cao xuất hiện, cuộn réo trườn tới và đổ ập lên người cô. Cô gái tối tăm mặt mũi, chới với giang tay chống đỡ nhưng không nổi. Trong phút chốc, cô gái bị ngọn sóng phủ kín và cuốn đi băng băng. Cô gái nghèo vô cùng hoảng sợ. Trong lúc đang thất hồn, bỗng cô nghe tiếng hạc kêu lánh lót và lạ lùng, cô cảm thấy như được một đôi tay người lực lưỡng đưa ra đỡ lấy rồi nhẹ nhàng đặt xuống một nơi cao ráo. Một lúc sau, cô từ từ mở mắt nhìn và hoảng sợ khi thấy bên cạnh có một chàng trai khôi ngô tuấn tú đang ngồi nhìn mình bằng cặp mắt dịu dàng. Chàng trai ở trần, phơi khuôn ngực vạm vỡ dưới ánh nắng sớm. Cô vội vàng vùng dậy định chạy trốn nhưng rồi lại thụp ngay xuống mặt chợt tái đi rồi lại bừng đỏ khi nhận ra trên người mình chỉ có một chiếc áo trắng của ai đã phủ choàng cho. Chàng trai lạ ân cần nắm tay cô: Cô đừng sợ. Tôi là người cách đây mấy tháng đã được cô cứu sống, nay tìm gặp để tạ ơn... Cô gái lắc đầu không hiểu. Nhưng nhìn ánh mắt chàng trai cô lại dần cảm thấy yên tâm. Cô đưa mắt nhìn quanh và nhận ra nơi mình đang ngồi là một khu đất bằng phẳng dưới chân một ngọn núi nhỏ, xung quanh hoa lá tốt tươi, hương thơm ngào ngạt như chốn tiên. Chàng trai vẫn nắm tay cô, mắt nhìn đằm thắm. Cô gái nghèo cảm thấy trong cơ thể mình một dòng hơi ấm đang lan toả. Thôi, âu cũng là số giời. Cô gái nghĩ thầm và e lệ cúi đầu tạ ơn kỳ ngộ.

Từ đó chàng trai và cô gái trở thành vợ chồng. Hàng ngày chàng trai lên núi kiếm củi, cô gái ra con sông nhỏ gần đó kiếm tôm cá, chiều tối họ lại cùng tụ về túp lều gianh dựng tạm trên dải đất bên chân quả núi nhỏ, sưởi ấm cho nhau bằng tình thương yêu đôi lứa. Cuộc sống sẽ cứ thế êm đềm trôi đi trong cảnh thanh bần đạm bạc và đầm ấm nếu như một ngày kia chàng trai trong lúc lên núi kiếm củi không chợt ngước nhìn về phía chân trời xa và nhận ra ở phương bắc và cả trên những dải xanh của thôn làng gần đó mây đen đang cứ từng hồi, từng hồi tán tụ thất thường và trong ngọn gió thổi về đỉnh núi có những tiếng kêu khóc, tiếng trống trận xen lẫn tiếng gươm giáo khua rền rĩ. Liền mấy ngày sau đó sự việc chàng trai đã chứng kiến vẫn liên tiếp diễn ra khiến chàng thấy lòng dạ không yên. Chàng bỏ dở việc kiếm củi vượt cánh đồng rộng và bãi lau sậy ken dày tìm về ngôi làng nơi thỉnh thoảng chàng vẫn đến đổi gạo, gặp mấy người nông dân tìm hỏi thì mới biết rằng hiện xung quanh nơi chàng ở tất cả đều đang có loạn. Các bộ lạc người sống trên những dải đất và núi, những xóm làng thuộc cả một vùng rộng lớn đang bị nạn giặc phương bắc tràn tới cướp bóc, chém giết. Nhà vua đã cho sứ giả phi ngựa đến khắp nơi kêu gọi người tài ra đánh giặc cứu nước cứu dân. Tận rõ nguồn cơn, chàng trai tức tốc quay về kể cho người vợ trẻ nghe những gì mình vừa chứng kiến. Đêm ấy, trong giấc ngủ thảng thốt, không yên, chàng trai mơ thấy một đạo sỹ mặc chiếc áo choàng bằng lông chim trắng đến tìm chàng. Khi giáp mặt, đạo sỹ rứt một chiếc lông chim trắng trên chiếc áo choàng, biến nó thành một thanh gươm sáng loà rồi dùng hai tay nâng lên ngang mày, trao vào tay chàng thanh gươm báu đó. Chàng đón thanh gươm, còn chưa kịp hỏi thì đạo sỹ đã quay lưng, vừa đi vừa hát: Chinh tòng chinh, chinh tòng chinh, bất diệt giặc hề, bất nguyện sinh.... Chàng trai lấy làm lạ cố chạy theo để hỏi thì đạo sỹ bỗng chuyển bước nhanh như gió, thoáng chốc đã khuất trong màn sương mờ ảo, chỉ riêng có tiếng hát là vẫn như tiếng chuông lánh lót vọng đến bên tai chàng rõ từng lời một. Chàng chợt tỉnh và vô cùng ngạc nhiên khi thấy trên tay mình đang nắm một thanh gươm thật. Chàng gọi vợ dậy, chìa cho vợ xem thanh gươm và kể lại cho vợ nghe câu chuyện gặp người đạo sỹ trong mơ. Vợ chàng chăm chú nghe, lặng đi hồi lâu rồi bỗng nhiên ứa nước mắt mà rằng: Ngay từ buổi đầu gặp chàng, thiếp đã lờ mờ đoán ra thân phận của chàng rồi. Chàng chính là con hạc trắng mà trước đó thiếp đã bắt được đem về nuôi. Hẳn đấy là ý trời đã định cho duyên mình vậy. Nhưng hạc trắng thường chỉ xuất hiện khi non sông có những cơn biến động lớn. Cơn biến động ấy giờ đã đến. Giặc dữ đang hoành hành khắp nơi. Việc cứu nước an dân là việc trọng đối với kẻ trượng phu trong thời loạn. Vả chàng không nghe câu hát của vị đạo sỹ đó ư . Tiếng hát ấy là dành cho chàng, là sứ mênh mà trời đã trao vào tay chàng. Dẫu mang thân nhi nữ nhưng thiếp cũng hiểu được lẽ trời. Vậy chàng hãy yên tâm ra đi phò vua giúp dân cứu nước. Để đáp ơn trời đất đã cho thiếp mấy năm gắn bó cùng chàng, thiếp nguyện từ nay khép chặt cửa lều, ôm núi chờ chàng, chỉ mong chàng khi nào giặc tan, non nước thái bình thì hãy kíp về nơi này với thiếp cho trọn tình hương lửa ba sinh.

Nghe vợ nói, chàng trai đang u uất bỗng thấy lòng thanh thản, máu huyết cường dâng, hiểu vận trời đã định, vội nói lời hẹn ước rồi vươn vai cầm lấy thanh gươm báu bước ra cửa. Một cơn gió mạnh bỗng nổi lên, cuộn lại rồi từ trong đám mây giông một con hạc trắng bỗng nhiên xuất hiện, sà xuống đỗ ngay trước sân. Chàng trai ôm hôn vợ lần cuối rồi nhảy lên lưng hạc trắng. Hạc trắng cất mấy tiếng kêu lánh lót như muốn nói lời tạm biệt, giậm mạnh chân mấy lần rồi nhún mình bay vút lên không. Người vợ trẻ vươn tay muốn níu lấy chồng lần nữa nhưng không kịp. Trong phút chốc bóng chồng nàng và hạc trắng đã nhoà vào ánh hồng dương, vẳng lại chỉ có tiếng hát tự đâu đó, như mơ như thực: Chinh tòng chinh, chinh tòng chinh, bất diệt giặc hề, bất nguyện sinh... Thiếu phụ kêu lên một tiếng, toàn thân thấy lạnh toát rồi gục xuống bên chân núi.

Lại nói chàng trai sau khi từ giã người vợ trẻ đã cùng chim hạc nhằm hướng kinh thành bay một mạch. Đến gần nơi, chim hạc đỗ xuống rũ mình biến thành một bộ áo giáp bằng lông trắng. Chàng trai mặc bộ áo giáp lông đó lên người rồi vào thành xin ra mắt đức vua. Đức vua cả mừng giao cho chàng quân đội và kíp phái chàng cất quân đi đánh giặc. Liền hơn mười năm sau đó chàng trai đã cùng thanh gươm và bộ giáp biến từ lông hạc trắng ngày đêm rong ruổi trên lưng ngựa chiến tìm đến tất cả mọi nơi trên đất nước đang có giặc, đánh đuổi chúng, giành lại cuộc sốg yên bình cho dân lành. Trong một trận đánh, khi toán quân giặc phương bắc cuối cùng đã rút chạy về bên kia biên giới, chàng trai xuống ngựa giang tay như muốn ôm lấy dải đất non sông đã sạch bóng thù, bỗng chàng bị một mũi tên từ phía tàn quân giặc bắn tới. Binh lính cùng các tướng kịp khi chạy đến thì tất cả bỗng vô cùng sửng sốt khi thấy nơi vị tướng anh dũng vừa ngã xuống chỉ có một con hạc trắng đang đậu. Hạc trắng thấy mọi người tới thì cất mình bay vút lên không, lượn ba vòng như chào rồi nhằm hướng đông bay gấp. Chim hạc đó chính là chàng trai kiêu dũng đã hoá thân. Chàng bay liền một hồi trở về nơi có người vợ trẻ đang ngóng chờ. Nhưng về tới nơi, khi hạ cánh xuống ngọn núi nhỏ chàng ngạc nhiên thấy cảnh vật đã đổi thay quá nhiều. Ngôi lều cỏ không còn. Chàng nhìn xuống chân núi và giật mình nhận ra một tảng đá nhỏ có hình một người đàn bà đang giang tay như muốn ôm trọn trái núi vào lòng. Chàng hiểu điều gì đã xảy ra và sau ba tiếng kêu xé lòng, chàng rùng mình tự hoá thân lần nữa, biến hồn vào trái núi. Cả vùng đất bỗng nhiên chuyển động. Trái núi cựa mình vươn cao và xung quanh núi bỗng ngạt ngào hương thơm của hàng trăm loài hoa lạ vừa bừng nở. Trái núi ấy sau này người đời gọi tên là núi hạc trắng và hiện vẫn còn đến ngày nay như nhân chứng cho một tình yêu vĩnh cửu.