Người đàn bà ấy xuất hiện ở huyện buổi sáng, thì đến đầu giờ làm việc buổi chiều hầu như tất cả đám cán bộ nhân viên khối văn phòng đều đã có những thông tin thiết yếu nhất về nhân thân của chị: Hiện là cán bộ đang làm việc Sở Thống kê tỉnh, có một đứa con gái bốn tuổi; đã lấy, nhưng rồi lại bỏ chồng và giờ vẫn sống độc thân... Những thông tin ấy được phát khẩn cấp trên các kênh của hãng thông tấn truyền mồm. Người ta xôn xao bàn tán. Với một huyện vốn được xếp vào diện vùng sâu vùng xa này, cuộc sống vốn trầm lặng và quá nhiều tẻ nhạt. Mọi việc diễn ra ở đây đôi khi giống như trong một cuốn phim không lời, trật tự và nề nếp đến hoàn hảo, đến thủ tiêu mọi ý đồ về các cuộc cách mạng thủ tục, phủ dần lên mọi khuôn mặt người lớp trầm tích của sự cam chịu, phó mặc và cả chút ảo tưởng hy sinh của đấng chịu nạn. Thế nhưng giờ đây thế cân bằng ấy có nguy cơ bị phá vỡ. Thông tin về người đàn bà kia đã như một viên sỏi ném xuống mặt ao tù. Văn hoá huyện với nắp bút kim mạ vàng cài túi ngực, với một que tăm giắt vành tai, với áo sơ mi bỏ trong quần và với những đôi dép lê không quai hậu cứ liên tục tản ra tụ vào giống như những đám bèo tấm dềnh theo sóng nước. Người đàn bà bỏ chồng! Những tiếng ấy vang lên như một hồi chuông báo hiệu sự xuất hiện đặc trưng lớn nhất của thời mở cửa, của chính sách thoáng và mối quan hệ đa phương chứa 99,99% yếu tố giải phóng vĩ đại.
Thường ngày quán lão Hạ vẫn bán thịt chó là chính, nhưng gần đây do huyện giải tán bếp ăn tập thể nên vợ lão nhận thêm việc nấu cơm bụi cho cánh cán bộ có nhà ở xa cùng một số khách vãng lai đến huyện công tác bị nhỡ bữa. Trưa hôm ấy quán lão Hạ đông khách hẳn lên. Người ta tụ tập lại quán để nghe ngóng, trao đổi thông tin về người đàn bà đặc biệt kia. Đặc biệt - chính thế! Ở huyện này những người đàn bà phần lớn lấy chồng là tuân theo một cách vô thức những nguyên tắc phổ biến và thông lệ. Có một số lấy chồng như chọn của để dành, như một hình thức bảo hiểm. Người ta không có khái niệm về chuyện bỏ chồng. Cũng có người bị chồng bỏ - nhưng đấy lại là chuyện khác. Bị chồng bỏ và bỏ chồng là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau: Một bên là hiện thân của sỉ nhục, một bên là kiêu hãnh; Bên này là huỷ diệt, bên kia là giải phóng. Người đàn bà bỏ chồng - chỉ từng ấy tiếng thôi cũng đủ để tạo thành quanh người đàn bà vầng hào quang bí ẩn. Những người đàn bà không bỏ chồng nhìn người đàn bà bỏ chồng bằng ánh mắt vừa ganh tỵ, vừa cảm phục - nỗi dày vò của con chó nhà khi nghe trong đêm tiếng của lũ sói rừng hát lời hát ngợi ca tự do và cái chết. Còn những người đàn ông có vợ thì nhìn người đàn bà bỏ chồng bằng cái nhìn vừa tò mò, băn khoăn, vừa chứa đựng niềm trắc ẩn, cảm thông. Có người còn lăm le đưa đẩy một vài tín hiệu bày tỏ sự đồng loã. Đa số họ đánh giá người đàn bà bỏ chồng còn giá trị hơn cả một gái đồng trinh.
Người ta đưa ra bao nhiêu là dự đoán. Người đàn bà bỏ chồng? - Lỗi rõ ràng và dứt khoát không phải ở chị! Chính người đàn ông kia có lỗi. Có thể đó là người không biết đang ôm giữ trong tay mình một báu vật. Lỗi ấy người đời vẫn để xảy ra. Không có thì ao ước, có thì thấy bình thường và không biết giữ gìn. Cũng có thể đó là một gã hèn hạ, đã trâng tráo đi ngoại tình? Dễ lắm! Qua báo đài, qua chuyện kể của những người từng trải, họ biết gần đây ở các thành phố lớn xuất hiện nhiều những câu lạc bộ bạn tâm giao dành cho những người cô đơn: Trai chưa vợ cô đơn, gái chưa chồng cô đơn; Đàn ông có vợ cô đơn, đàn bà có chồng cũng cô đơn. Họ kêu rống lên về nỗi cô đơn, xuất ra mùi cô đơn ở mọi nơi, mọi chỗ. Nhưng cô đơn cái phải gió. Đó chỉ là những mỹ từ sáo rỗng người ta trưng lên lên để che đi cái phần thô thiển trần tục. Đã bước sang thế kỷ hai mốt, lại gặp buổi kinh tế mở, nhưng những người đàn bà vẫn không dám nói ra điều ham muốn xác thịt với chồng, đã chấp nhận ăn cơm bụi buổi trưa, lấy cớ bận việc cơ quan không về ăn cơm nhà, để có thể tự do cởi bỏ đạo đức khoả thân với một gã đàn ông mới quen trong một căn phòng thuê theo giờ ở một khách sạn nào đó. Cạm bẫy giăng đầy. Hẳn anh chồng kia đã rơi vào một vũng xoáy như vậy.
Cũng có thể đó là một người đàn ông rất kém cỏi, một nhân viên rất quèn ở một cơ quan cũng rất quèn, thủ trưởng không có "cạc – vi - sit", không có điện thoại di động, còn nhân viên thì lương tháng chưa đủ hai lần lương tối thiểu do nhà nước quy định. Lại cũng có thể đấy là người đàn ông hiền lành nhưng hiền quá hoá ngu, không thức thời và con người hiền giả không thức thời ấy vẫn giữ tác phong cổ điển, hàng ngày chào vợ bằng câu: "Bu nó đã về đấy à "chứ không chịu thay bằng câu "Helo, good my Wife" mà tự nó khi vang lên ở bất cứ đâu cũng đủ sức khẳng định cho sự hữu học của người nói. Tóm lại, đó hẳn phải là một người đàn ông chẳng ra gì, vô phương cứu chữa.
Không hề biết gì đến những lời dị nghị của những người xung quanh về mình, hoặc biết mà chẳng thèm để tâm tới, điềm nhiên và ung dung như một lãnh chúa, đến giờ ăn cơm chiều, người đàn bà bỏ chồng xuất hiện ở quán. Lúc chị bước qua ngưỡng cửa, tất cả đám thực khách trong quán đều bất giác lặng đi trố mắt nhìn. Chị rất đẹp. Môi chị mềm, hơi nhợt nhạt và hơi trễ. Trước đám đông những người đàn ông trong quán, cặp môi ấy vẫn trễ, như trẻ nhỏ và như hờn dỗi: - Thế vậy chỗ ngồi của tôi đâu? Lão Hạ lập tức luống cuống. Lão vội chạy tới, hai tay xoa vào nhau và lắp bắp một điều gì đó không thành tiếng. Vợ lão vứt về phía lão chiếc giẻ lau kèm theo một cái bữu môi. Người đàn bà đáp lại cái bữu môi xỉn và nhăn như miếng thịt chó gặp lửa kia bằng một nụ cười như bảo: "Chị thông cảm, đàn ông họ đều như vậy đấy, nhưng chả sao đâu mà". Chị khom người lịch sự xin phép khi đi qua ai đó và theo lão Hạ vào tận góc quán trong cùng. Ở đó có một chiếc bàn nhỏ kê cạnh khung cửa sổ mở nhìn ra con đường mòn và cánh đồng lúa phía sau. Trên bức tường cạnh cửa sổ có ai đã lấy than củi viết lên đó câu thơ: "Tố Như ơi, rượu chảy quanh thân Kiều". Người đàn bà nhìn, thoáng cau mày rồi mỉm cười. Tín hiệu được phát đi tới tấp. Qua ánh mắt và những cái gật đầu, những người đàn ông trong quán đánh "mooc" cho nhau: Một đĩa bún lá, không gọi mắm tôm mà gọi nước mắm vắt chanh - đó là cách ăn của người thành phố; Ô, Seven of kèm một lon bia. Lão Hạ được mời! Lon bia ấy dành cho lão Hạ. Rõ chó ngáp phải ruồi, quỷ thật. Hãy nhìn những ngón tay nàng kìa... Seven of, chà, thánh thật... trong suốt và ... thánh thật.
*
* *
Người đàn bà bỏ chồng đã ở lại huyện ba ngày và cả ba ngày nàng đều đến quán lão Hạ: Sáng đúng mười một giờ, chiều năm giờ, ngồi đúng chiếc ghế nhỏ cạnh chính cái bàn nhỏ trong góc; nhìn ra cánh đồng, nhìn câu thơ trên tường; vẫn ngạc nhiên; vẫn nụ cười thơ trẻ; vẫn gọi bia và chả bao giờ uống. Nàng vẫn gọi Seven of và đặt những ngón tay thánh thiện lên thành cốc để gợi một cái gì thật mảnh mai và dễ vỡ.
Lão Hạ, dù quán đông đến mấy vào những ngày này cũng không bố trí ai ngồi vào chung bàn với chị. Đám đàn ông thầm thì. Đã có một vài anh ngổ ngáo nhất, định làm đảo chính nhưng khi lời nói vừa bật ra vài tiếng là đã vội nín bặt. Người đàn bà ấy rõ ràng không thuộc tầng lớp của họ, không cùng cánh và đầy bí ẩn.
- Tôi không làm phiền các anh chứ? - Đáp lại câu chào của một vài cán bộ huyện chắc đã từng trong những ngày qua có dịp làm việc, gặp gỡ với chị, chị chỉ mỉm cười và hỏi lại như vậy. Rồi chả để ý gì đến câu trả lời, chả để ý gì đến chung quanh, vẫn như một lãnh chúa trong vương quốc của mình, chị tự cho mình cái quyền được về chỗ ngồi và lập tức nhìn ra ngoài. Bên ngoài thì có gì đáng nhìn cơ chứ? Một vài người gánh hàng rong diễu qua, nét mặt vô cảm. Mấy người nông dân đi làm về, cau có, đơn tẻ và giống nhau như những giọt mồ hôi. Cánh đàn ông bắt đầu tự ái. Những nắp bút kim bắt đầu xê dịch; Những chiếc áo bỏ trong quần bắt đầu chuyển động cùng với đôi dép lê cố tình phát ra tiếng động; Những que tăm tụt khỏi vành tai và bắt đàu khua mỗi lúc một nhanh, mạnh trên những hàm răng cải mả. Vô ích. Văn hoá huyện đâm lúng túng. Không, có lẽ chưa đúng kênh, cần có sự điều chỉnh. Xuân Hinh, Bảo Quốc được huy động. Bệnh AIDS đang hoành hành ở châu lục đen và có nguy cơ lan tới tận vùng đồng chiêm trũng này. Những đám cháy rừng ở Indonexia gây ô nhiễm cho cả những nước trong khu vực... Không ăn thua! Vậy thì cuộc thi người đẹp phía bắc do Báo Tiền Phong và VTV3 của Đài truyền hình thực hiện? Hay lũ lụt ở đồng bằng sông Cửu Long?... Vẫn không ổn. Hình như đã có một bức tường vô hình được dựng lên chặn đứng mọi tín hiệu. Người đàn bà vẫn như đang ở trong một thế giới khác, những ngón tay thanh mảnh vẫn chẳng có một biểu hiện bối rối nào trên thành cốc pha lê đựng thứ nước Seven of trong suốt. Trước mặt chị, trên bàn, lon bia gọi ra cùng với mấy cuộn nem dành mời lão Hạ vẫn để nguyên. Chả ai biết vì sao chị lại mời lão Hạ. Chính lão Hạ cũng lúng túng. Chiều qua lúc đứng dậy ra về, khi chị móc tiền trả lão đã nhất định từ chối. "Không, bác cứ nhận cho, tôi đã gọi mà" - Nhưng chị có dùng đến đâu? - Lão Hạ lúng túng. Vợ lão gắt: Bia ấy, nem ấy tôi lấy ở quán bên. Nếu ông không lấy tiền thì đi mà nói với người ta, tôi là tôi không có trả lại. Còn uống hay không, hay đem đổ đi, kệ, đây không biết. "Không, cháu mời bác, cháu trả tiền mà", người đàn bà đặt vội tiền lên quầy rồi quay ra điệu bộ như người có lỗi. Lão Hạ chờ cho chị khuất hẳn mới quay sang vợ: Bà dở hơi... Vợ lão chống hai tay vào hông: Có nhà ông dở hơi. Người ta không uống, mời ông thì coi như đã là của ông. Ông không uống thì để đây bán cho người khác uống. Gớm mà sao hôm nay chó lại tự dưng chê cứt... Lão Hạ đưa tay lên định vả cho mụ vợ một cái nhưng rồi kìm lại được. Hôm nay người đàn bà lại vẫn gọi đủ các món như hôm trước và vẫn để lại lon bia với mấy cuộn nem. Vợ lão Hạ vừa bán vừa canh chừng chồng. Đã hơn sáu giờ, sắp đến lúc người đàn bà bí hiểm rời quán. Đám đàn ông nhìn chị thăm dò. Chị vẫn ngồi im nhìn đăm đăm ra ngoài, ánh mắt trống rỗng như một cái hồ không có cá. Chiều xuống chậm rãi rồi nhoà dần. Nhưng người đàn bà vẫn ngồi . Cánh đàn ông bắt đầu sốt ruột. Trời đã tối, đã đến giờ phải về nhà. Không đào đâu ra một cái gì bí ẩn. Mọi sự đang chờ đợi họ ở nhà đều quá rõ ràng: cánh cửa rít lên; ánh mắt vô cảm của vợ; Họ đã thay đổi giờ về nhà, chả có tác dụng: ánh mắt của vợ vẫn vô cảm. Giá như nó loé lên giận dữ; Giá như nó chất vấn đòi giải thích; và giá như nó gào lên hay lăn ra hờn dỗi. Không, sẽ chẳng có gì là như thế cả. Thế nhưng vẫn phải về...
*
* *
Trưa hôm sau không thấy người đàn bà ấy đến quán. Những người đàn ông cố ăn thật chậm, rõ ràng là có ý chờ. Lão Hạ hất hàm: ăn nhanh rồi biến đi các vị, chả có ai thêm nữa đâu. Câu nói rõ ràng có hàm ý. Cánh đàn ông giương mắt nhìn. Lão Hạ chỏng lỏn: Xong việc, về rồi. Cánh đàn ông cụp mặt xuống. Có người bỏ dở bữa, ngồi ngây...
Trời bỗng đổ cơn mưa, một cơn mưa bóng mây thôi nhưng khá nặng hạt. Lão Hạ ra đứng trước cửa, mắt nhìn con đường trắng nước, chửi bâng quơ: Trời với đất, đang nắng thì lại mưa ngay cái con mẹ nó được, xúi đến thế là cùng...