Mô hình giá Tripple Bottom - Ba đáy được tạo thành từ ba đáy (VVV) với giá gần như bằng nhau tạo thành một đường hỗ trợ và ở hai đỉnh "AA" tạo thành một đường kháng cự.
Như đã đề cập, Mô hình giá đáy ba bao gồm ba đáy (VVV) với giá gần như bằng nhau tạo thành một đường hỗ trợ và tại hai đỉnh "AA" tạo thành một đường kháng cự. Giá đi vào mô hình ba đáy từ trên cao, sau đó thoát ra bằng cách phá vỡ trên đường kháng cự.
Mô hình giá triple bottom - ba đáy hình thành trong xu hướng giảm. Giá giảm tạo ra một mức thấp mới (đây là đáy trái của mô hình đáy ba), sau đó giá bật lên tạo ra một mức cao nhưng thấp hơn (đây là phía trên bên trái của mô hình ba đáy).
Quan sát trên biểu đồ, các nhà giao dịch có thể thấy rằng giá tiếp tục di chuyển trong xu hướng giảm (tạo ra mức cao thấp hơn và thấp hơn). Người bán tin rằng đỉnh bên trái vẫn là một cơ hội bán hàng tốt và giá sẽ giảm trở lại. Nhưng, đáy ở giữa không thể làm cho mức thấp hơn.
Giá tiếp tục tăng, sau đó giảm trở lại, tạo thành một đỉnh bên phải. Nhưng, ở đáy phải, giá không di chuyển thấp hơn hai mức thấp trước đó. Vì vậy, cả ba mức thấp tạo thành một đường hỗ trợ và cho thấy đây là một rào cản lớn mà người bán cần phải vượt qua. Tiếp theo, một hành động cần phải được thực hiện khi giá tăng lên mức cao dự đoán thứ ba - khả năng những đực sẽ đặt sức mạnh của chúng để đẩy giá cao hơn, phá vỡ trên đường kháng cự, tiếp theo là sự đảo ngược xu hướng. Giảm trước mô hình Triple Bottom - ba đáy hoặc người bán tiếp tục cố gắng duy trì xu hướng giảm. Khi đường kháng cự bị phá vỡ, một quyết định đã được đưa ra, sau một cuộc biểu tình gần kháng cự, giá sẽ được đặt cược để di chuyển cao hơn.
Một tín hiệu mua xuất hiện trong mô hình ba đáy khi giá phá vỡ trên đường kháng cự, tạo ra thung lũng thứ ba "VVV". Quan sát và nghiên cứu biểu đồ trên, nhà giao dịch đã nhận thấy Bulkowski (2005) giải thích rằng mức tăng trung bình tối đa sau tín hiệu mua là 37%.
Nhưng, một pullback sau khi một tín hiệu mua được hình thành với một xu hướng trở lại đường kháng cự trước đó có khả năng xảy ra, chiếm 64% thời gian (có nghĩa là cứ sau 100 breakouts). Mô hình này có 64 lần giá sẽ trở lại khu vực đã bị phá vỡ). Bên cạnh đó, ông Bulkowski cũng khuyến nghị rằng mô hình Triple Bottom - ba đáy được hình thành sau một xu hướng tăng dài trong một thời gian dài, cho hiệu suất rất thấp. Và một nghiên cứu khác của Kirkpatrick &Dahlquist cho thấy mô hình ba đáy với đỉnh thứ hai cao hơn đỉnh thứ hai có kết quả tích cực hơn.
Trên thực tế, một nhà phân tích kỹ thuật chỉ ra mục tiêu giá cho mô hình này bằng cách lấy chiều cao của mô hình (trên cùng trừ đáy) sau đó cộng với breakout giá (đường kháng cự). Nhưng ông Bulkowski (2008) đề xuất một công thức cụ thể, chính xác hơn để tính toán mục tiêu giá cho mô hình này như sau:
Mục tiêu giá cho mô hình giá Triple Bottom - ba mức thấp đột phá trên:
Giá cao nhất tại đỉnh + ((Giá cao nhất tại đỉnh - Giá thấp nhất ở đáy) x 64%)
Dưới đây là một biểu đồ minh họa sự xuất hiện của mô hình Triple Bottom của Procter &Gamble (PG). Theo xu hướng giảm kéo dài trong một thời gian dài (vài tháng), giá sẽ đảo chiều sau khi đẩy giá ở đáy (tạo thành đáy bên trái).
Phần trên bên trái của mô hình này thực sự đã được chạm và trả lại vào ba lần khác nhau trước khi giá bắt đầu di chuyển xuống, làm cho đáy ở giữa. Giá tiếp tục tăng trở lại, tạo ra một đỉnh ở bên phải với cùng mức giá với giá bên trái.
Giá tiếp tục di chuyển bên dưới đường hỗ trợ (được tạo bởi hai máng trước đó), lưu ý rằng đường hỗ trợ này chưa bị hỏng. Sau đó, giá lại tăng trở lại về phía đường kháng cự (được tạo thành từ hai đỉnh). Sau khi giá vượt qua đường kháng cự này và dừng lại ở đỉnh, cách xa đường kháng cự, một tín hiệu mua xuất hiện. Tuy nhiên, một hiện tượng khá phổ biến trong mô hình ba đáy là sự phục hồi trở lại đường kháng cự sẽ hình thành, nhưng giá sẽ tăng nhanh chóng và hoàn thành mô hình ba đáy như mong đợi.