Mô hình giá Measured Move chuyển động đều ngược chiều so với một xu hướng trước đó, chúng hoạt động tương tự một mô hình tiếp diễn.
Mô hình giá Mô hình giá Measured Move theo hướng ngược lại với xu hướng tăng trước đó, chúng hoạt động tương tự như mô hình tiếp tục. Trong một mô hình di chuyển tăng ổn định, một sự đảo ngược giá sẽ di chuyển lên sau một xu hướng giảm trước đó. Mô hình giá Measured Move tăng được chia thành ba giai đoạn:
Giai đoạn tăng đầu tiên
Giai đoạn điều chỉnh xảy ra khi giá giảm
Khoảng thời gian giá tăng trở lại
Ý nghĩa chính của mô hình này là sau khi giá đã phục hồi, chúng phải trở lại xu hướng ban đầu, khoảng cách phải xấp xỉ bằng tỷ lệ phần trăm của động thái giá ban đầu (Rockefeller, 2012). ).
Trái ngược với Mô hình giá Measured Move tăng, Mô hình giá Measured Move giảm dần xuất hiện sau xu hướng tăng. Mô hình giá Measured Move giảm được chia thành ba giai đoạn:
Giai đoạn đầu tiên là sự đảo ngược của xu hướng tăng trước đó
Vùng điều chỉnh giá tăng
Khoảng thời gian giá giảm thêm một lần nữa
Thông thường, tín hiệu mua xuất hiện khi giá phá vỡ dưới đường hỗ trợ trong kênh xu hướng tăng tại vùng điều chỉnh. Và tín hiệu bán thứ hai sẽ xuất hiện khi giá phá vỡ dưới đáy trên làn sóng giảm giá đầu tiên.
Đầu tiên, một nhà giao dịch có thể quan sát một xu hướng giảm, trong đó những đực ở cuối xu hướng đưa ra tín hiệu mạnh mẽ khi đàn áp người bán, khiến giá bị đẩy xuống xa hơn, nơi đỉnh cũng phá vỡ mức thấp hình thành trước đó.
Sau khi làn sóng đầu tiên hình thành, đó cũng là sự xác nhận của một sự đảo ngược, xu hướng giảm kết thúc.
Tiếp theo là giai đoạn sóng điều chỉnh, quan sát hành động giá, nhà đầu tư có thể nhận thấy có 2 mô hình trên biểu đồ cần lưu ý:
Duoble top - mô hình double-peak xác nhận chính xác rằng giá đã chuyển sang đợt hai và đang điều chỉnh cho làn sóng đẩy đầu tiên.
Mô hình tam giác mở rộng tiếp tục xu hướng giảm của sóng điều chỉnh.
Trong đợt thứ hai, các nhà giao dịch nên chú ý đến 2 điểm, đầu tiên là liệu chiều dài của sóng 2 có kết thúc ở mức Fibo 61,8% của sóng đẩy 1 hay không. Tiếp theo là đường xu hướng giảm, trở thành tín hiệu để xác nhận kết thúc của đợt 2, và cũng là một tín hiệu để xác nhận nhà giao dịch tham gia lệnh.
Sóng 3 được hình thành khi đường xu hướng bị phá vỡ (tức là mô hình tam giác mở rộng cũng bị phá vỡ), đây là thời điểm an toàn nhất để các nhà đầu tư nhập lệnh giao dịch.
Dừng lỗ nên được đặt ở dưới cùng của sóng điều chỉnh và chốt lời (ít nhất) nên dựa trên ví dụ, nên dựa trên chiều dài của sóng đẩy đầu tiên.
Trên đây là biểu đồ tuần minh họa về mô hình Measured Move tăng của Nasdaq 100 ETF (QQQ). Trong giai đoạn đầu cổ phiếu này đạt mức tăng gần 46% trong 56 ngày. Phần điều chỉnh giá đạt khoảng 19% trong 98 ngày. Và giai đoạn tăng thứ hai đạt được hơn 40% trong 126 ngày.
Cách giao dịch với mô hình Measured Move tăng
Trong đánh giá chính xác nhất của Bulkowsi năm 2005 cho thấy thời gian trung bình để hình thành mô hình chuyển động tăng ổn định là khi những đực lần đầu tiên tăng mạnh trên 46% trong 87 ngày. Điều chỉnh giá sẽ xảy ra khi xu hướng giá bị đảo ngược và giảm xuống khoảng 47% trong 32 ngày. Và giai đoạn tăng giá thứ hai cần đạt mức cao trung bình 32% trong gần 60 ngày.
Mục tiêu giá và tín hiệu mua
Trên thực tế, mô hình Measured Move gần giống như một công cụ để dự đoán xu hướng giá.
Ví dụ, trong quá trình điều chỉnh giá, mô hình này thường tạo ra một kênh giảm giá, vì vậy khi giá phá vỡ trên đường kháng cự trong xu hướng giảm, tín hiệu mua sẽ xuất hiện. Tín hiệu mua tiếp theo có thể xuất hiện khi giá phá vỡ đỉnh và hình thức sau cuộc biểu tình đầu tiên.
mô hình Measured Move giúp các nhà đầu tư xác định giá mục tiêu. Thông thường giai đoạn thứ hai của biến động giá tương đương với giai đoạn đầu tiên.
Có nghĩa là, nếu giai đoạn đầu tiên di chuyển 20 điểm, thì giai đoạn thứ hai cũng sẽ di chuyển 20 điểm. Mục tiêu giá được đưa ra bởi nghiên cứu bulkowski (2005) như sau:
Giá thấp nhất trong kỳ điều chỉnh giá + ((giá cao nhất trong kỳ giá điều chỉnh - giá thấp nhất khi bắt đầu tăng lần đầu) x 45%)
Dưới đây là biểu đồ tuần minh họa về mô hình Measured Move giảm của Bank of America. Trong giai đoạn đầu có mức giảm khoảng 44.5% trong 231 ngày.
Tiếp đến phần điều chỉnh ngược lên trên có một khoảng hồi đạt 40% trong 42 ngày. Trong giai đoạn giảm thứ hai cho mức giảm là 40% trong 203 ngày. và mức giảm chạm đáy thực tế khoảng 67.5%.
Cách giao dịch với mô hình Measured Move giảm
Theo Bulkowski (2005) trong một thị trường giảm, đợt tăng thứ nhất của mô hình Measured Move giảm nằm trong mức giảm gần 27% trong 61 ngày, vùng điều chỉnh là khoảng 48% trong 30 ngày, và đợt tăng thứ hai xuất hiện trong khoảng 25% trong 62 ngày.
Mục tiêu giá
Mục tiêu giá được đưa ra theo nghiên cứu của Bulkowski (2008) như sau:
Giá cao nhất trong giai đoạn giá điều chỉnh – ((giá cao nhất của đợt tăng thứ nhất – giá thấp nhất giai đoạn giá điều chỉnh)x 35%)