Chương 40: MAI TÁNG ĐỨC GIÊSU

CHƯƠNG IL

MAI TÁNG ĐỨC GIÊSU

Bấy giờ các ông đặt Thân Thể Linh Thiêng trên một cái cáng bằng da, phủ lên dó một tấm vải nâu, và xỏ hai cây đòn dài hai bên. Tôi nghĩ ngay đến Hòm Bia Giao Ước. Ông Nicôđêmô và ông Giuse khiêng trên vai hai đòn phía trước; ông Abênađa và ông Gioan khiêng phía sau. Theo sau là Đức Trinh Nữ, bà chị Maria Hêli, bà Mađalêna, và bà Maria Clêôpha và nhóm phụ nữ ngồi đằng xa là các bà Vêrônica, Gioanna Chusa, Maria Máccô; Salômê, vợ ông Giêbêđê; Maria Salômê, Salômê ở Giêrusalem, Sugianna, và cháu của Thánh Giuse là bà Anna. Bà là con gái của người em thánh Giuse và lớn lên ở Giêrusalem. Ông Cátsiô và các binh lính đi sau cùng. Các phụ nữ khác như bà Marôni ở Naim, bà Đina người Samaritanô, và bà Maria người Suphanít lúc ấy đều ở lại Bêtania với bà Mácta và Lagiarô.

Hai người lính mang đuốc đi trước để chiếu sáng cho căn hầm mộ. Đám rước di chuyển theo thứ tự này chừng bảy phút, họ hát Thánh Vịnh với một giọng du dương nhưng trầm buồn. Tôi thấy ông Giacôbê Cả, anh ông Gioan đứng trên đồi bên kia thung lũng nhìn đám rước đi qua rồi ông rời chỗ ngay sau đó để báo tin cho các môn đệ khác biết những gì đã xảy ra.

Tôi thấy đám rước dừng chân ở lối vào cổng vườn, và cổng được mở ra bằng cách gỡ một vài cái cọc lớn mà sau đó được dùng để lăn tảng đá đóng cửa hầm mộ. Trước khi đến tảng đá này, họ mở tấm vải phủ chiếc cáng, nâng xác lên, và đặt trên một tấm ván có phủ vải. Ông Nicôđêmô và ông Giuse giữ một đầu tấm ván, hai người khác giữ đầu kia. Căn hầm mộ mới đục và đã được đầy tớ của ông Nicôđêmô quét dọn sạch sẽ khang trang. Trường kỷ để xác thì rộng ở đầu và hẹp ở chân. Phiến đá này được khoét theo hình thân thể được quấn vải, và ở đầu và chân thì hơi cao lên.

Nhóm phụ nữ thánh thiện ngồi phía trước mộ trong khi bốn người đàn ông khiêng xác Đức Giêsu vào căn hầm, kính cẩn đặt Người trên phiến đá đã phủ sẵn thuốc thơm có một khăn trắng trải bên trên. Sau khi tỏ lòng kính yêu trong nước mắt và hôn kính xác Đức Chúa một lần nữa, họ ra khỏi hầm mộ. Rồi Đức Thánh Trinh Nữ vào ngồi bên cạnh đầu Người Con Chí Ái của Mẹ, cúi mình ôm xác con khóc thương thảm thiết. Khi Mẹ rời huyệt thì bà Mađalêna tiến lên rải một số cành hoa mà bà đã hái trong vườn lên thân xác Chúa. Bà chắp tay lại và hôn kính chân Chúa trong nước mắt. Nhưng các ông nhắc bà rằng họ còn phải đóng cửa mộ nên bà quay về với nhóm các bà thánh thiện. Họ kéo đầu tấm khăn trải trên phiến đá rồi phủ bên ngoài một tấm khăn màu nâu, rồi đóng hai cánh cửa hầm bằng kim khí màu đồng đen, có hai then chốt, một then đứng và một then ngang trông giống hệt một cây thập giá.

Tảng đá lớn mà họ dự định lấp cửa mộ vẫn còn nằm bên ngoài hang, trông nó như cái rương hay nấm mộ, chiều dài đủ lớn cho một người nằm gọn trên đó. Phiến đá này rất nặng nên phải dùng đòn bẩy để lăn tảng đá tới trước cửa mộ. Lối vào mộ có một cái cổng kết bằng những cành cây liễu gai quấn vào nhau.

Tất cả công việc trong mộ đều phải thực hiện dưới ánh đuốc vì ánh sáng mặt trời không lọt vào được. Tôi thấy trong khi chôn cất, một vài người đàn ông lấp ló chung quanh khu vườn kế cận và ở núi Canvê. Họ trông có vẻ e dè và buồn bã. Tôi nghĩ họ là các môn đệ, vì sau khi ông Abênađa kể lại cho họ nghe những gì xảy ra, họ mạo hiểm ra khỏi hang và đến đây. Giờ đây dường như họ đang trở về.

SAU KHI MAI TÁNG TRỞ VỀ. NGÀY SABÁT

Ngày Sabát đã bắt đầu. Ông Nicôđêmô và ông Giuse trở về thành phố qua một cổng riêng nhỏ xây trong bức tường thành phố gần khu vườn nhà ông Giuse nhờ có phép đặc biệt. Các ông đã cho Đức Trinh Nữ, bà Mađalêna, ông Gioan và một số phụ nữ khác biết rằng khi cầu nguyện trên núi Canvê xong thì các vị có thể về qua đây, vì cổng này cũng như cửa phòng Tiệc Ly trên lầu sẵn sàng mở cho họ bất cứ khi nào họ gõ. Bà Maria Hêli, chị của Đức Trinh Nữ, trở về thành phố cùng với bà Maria mẹ ông Máccô và một số bà khác. Đầy tớ của ông Nicôđêmô và ông Giuse thì trở lại núi Canvê để lấy một vài dụng cụ họ để quên.

Binh lính nhập bọn với đội lính gác cổng thành gần núi Canvê, trong khi ông Cátsiô cưỡi ngựa đến dinh Philatô mang theo ngọn giáo. Ông kể lại cho Philatô nghe tất cả những gì đã xảy ra, và hứa sẽ báo cáo đầy đủ mọi sự khả dĩ sẽ xảy ra, nếu Philatô cho ông toàn quyền điều khiển đội lính mà thế nào người Do Thái cũng đến xin phép ông được đặt canh gác chung quanh ngôi mộ Đức Giêsu. Tổng trấn Philatô lắng nghe lòng thầm sợ hãi nhưng cuối cùng ông bảo ông Cátsiô chỉ điên khùng mê tín dị đoan thôi.

Khi Đức Trinh Nữ và các bạn vừa trở về từ núi Canvê thì một đám lính cầm đèn đuốc tiến đến. Các bà đứng dạt sang hai bên nhường cho lính đi qua. Có lẽ đám lính lên núi Canvê để đem tội phạm bị treo trên các thập giá đi chôn trước ngày Sabát. Khi toán lính đi qua, các bà tiếp tục đi về cổng riêng.

Hai ông Giuse và Nicôđêmô gặp ông Phêrô và hai ông Giacôbê Cả và Giacôbê Nhỏ trong thành. Mọi người đều khóc. Nhất là ông Phêrô đã không cầm nổi cơn đau đớn vò nát tâm can ông dữ dội. Ông khóc lóc thảm thiết rồi ôm lấy hai ông Giuse và Nicôđêmô than thở rằng ông đã không có mặt nơi Đức Chúa từ trần, và cám ơn hai ông đã chu tất mọi lễ nghi mai táng cho Thân Thể Cực Thánh Đức Giêsu. Hai ông cho Phêrô biết rằng phòng Tiệc Ly trên lầu sẽ mở cho họ bất cứ ai gõ cửa. Sau đó họ chia tay đi tìm các môn đệ khác đang ở rải rác khắp nơi.

Sau này tôi thấy Đức Trinh Nữ và các bạn đi vào Nhà Tiệc Ly, sau đó ông Abênađa cũng đến và được cho vào, rồi từ từ các Tông Đồ và đa số các môn đệ khác cũng đến tụ họp tại đó. Các bà rút về căn phòng mà Đức Trinh Nữ đang ở. Họ dùng chút ít thực phẩm rồi lại nhỏ lệ đau thương, kể cho nhau nghe những gì mỗi người đã thấy. Các ông thay quần áo, và tôi thấy họ đứng dưới ánh đèn giữ luật ngày Sabát. Họ ăn chút ít thịt chiên trong phòng Tiệc Ly trên lầu, nhưng không giữ một nghi thức nào cả vì họ đã ăn Chiên Vượt Qua tối hôm trước rồi. Tất cả đều đau đớn buồn phiền. Các bà đạo đức cũng cầu nguyện với Đức Maria dưới ánh đèn. Sau đó, khi màn đêm buông xuống thật rồi thì ông Lagiarô, bà quả phụ Marôni ở Naim, bà Đina người phụ nữ Samarita, và bà Maria người Suphanít cũng từ Bêthania đến. Rồi một lần nữa họ được nghe kể lại mọi sự đã xảy ra với bao nhiêu lệ sầu đau thương cảm mến.

ÔNG GIUSE ARIMATHÊ BỊ BẮT. NGÔI MỘ ĐƯỢC CANH GÁC

Ông Giuse Arimathê rời Nhà Tiệc Ly trễ và về nhà cùng với một số môn đệ và vài bà thánh thiện. Đang khi họ buồn bã bước dọc những đường phố Sion thì một toán võ trang nấp cạnh tòa án của Caipha xông tới hành hung và bắt ông Giuse Arimathê. Các bạn bỏ chạy và la hét kinh hoàng. Họ nhốt ông Giuse trong một cái tháp không xa tòa án bao nhiêu. Những tên lính này đều là dân ngoại không phải giữ luật ngày Sabát, nên Caipha đã có thể nhờ chúng thi hành việc này được với ý định để ông Giuse chết đói và giữ bí mật sự kiện ông bị mất tích.

Vào đêm thứ Sáu rạng ngày thứ Bảy, Caipha và một số gia trưởng người Do Thái tổ chức cuộc họp để bàn xem phải làm gì với những dấu lạ đã xảy ra, và ảnh hưởng của nó trên dân chúng. Lúc ấy trời đã khuya, họ đến nói với Philatô rằng "Trong khi còn sống, tên dụ dỗ ấy đã nói, "Sau ba ngày Ta sẽ chỗi dậy," nên họ xin Philatô" ra lệnh cho canh gác hầm mộ đến ngày thứ ba; nếu không thì môn đệ của y có thể đến lấy xác đi, và phao lên rằng, 'Người đã sống lại từ cõi chết,' và điều này còn tệ hại hơn điều trước."

Philatô không muốn dính dáng gì đến việc này nên nói: "Các ông có lính canh của các ông thì hãy canh giữ theo ý các ông." Tuy nhiên, Philatô cũng cắt cử ông Cátsiô theo dõi và báo cáo tường tận cho ông mọi điều sẽ xảy ra. Ngay sau đó tôi thấy mười hai người rời thành phố trước khi mặt trời mọc. Tôi thấy bọn này được một số lính không mặc quân phục Rôma hộ tống vì họ được biệt phái canh gác Đền Thờ. Họ đem theo đèn dầu trên những cây sào dài, để có thể nhìn rõ trong bóng tối, và cũng để có thể nhìn thấy bên trong ngôi mộ tối.

Khi đến nơi, trước tiên họ đã tận mắt nhìn thấy xác Đức Giêsu trong đó rồi thì họ cột một sợi giây ngang qua cửa mộ và một sợi giây khác từ đó đến hòn đá trước mộ rồi niêm phong hai sợi giây với nhau bằng cách gắn một con dấu xi hình bán nguyệt. Sau đó họ trở về thành phố, còn lính canh thì đứng đối diện với cửa mộ bên ngoài. Lính canh gồm năm hoặc sáu người chia thành hai toán ba người một thay phiên nhau gác. Cátsiô thì không hề rời khỏi nhiệm sở, phần lớn thời gian ông ngồi hay đứng ngay trước cửa mộ để được nhìn thấy phía chân của Đức Chúa. Ông được nhiều ơn soi sáng nội tâm và được hiểu rõ nhiều mầu nhiệm. Vì hoàn toàn không quen với trạng thái giác ngộ tâm linh này, ông như trong tình trạng xuất thần, không biết gì đến ngoại cảnh. Ông đã hoàn toàn thay đổi, trở nên con người mới, và dùng suốt ngày để sám hối, cảm tạ và thờ phượng Chúa.

CÁC BẠN CỦA ĐỨC GIÊSU NGÀY THỨ BẢY TUẦN THÁNH

Các môn đệ trung thành với Chúa tụ họp trong Nhà Tiệc Ly để giữ ngày Sabát. Họ có khoảng hai mươi người, mặc áo dài trắng có thắt lưng. Căn phòng có một ngọn đèn chiếu sáng. Sau khi dùng bữa, họ chia tay, đa số trở về nhà. Sáng hôm sau họ lại tụ họp thay phiên đọc kinh thánh và cầu nguyện và nếu có bạn nào vào phòng thì họ đứng dậy và thân ái tiếp đón.

Phần nhà trong dành cho Đức Trinh Nữ ở có một phòng lớn chia thành nhiều ô như những phòng nhỏ để các bà ngủ đêm trong đó. Khi các bà từ mộ trở về, thì một trong các bà đốt một ngọn đèn treo giữa căn phòng và rồi họ quây quần quanh Đức Trinh Nữ, và bắt đầu cầu nguyện, giọng đầy đau thương tang tóc nhưng rất cầm trí trang nghiêm. Sau đó không lâu có các bà khác đến từ Bêtania cùng với ông Lagiarô. Đức Thánh Trinh Nữ và các bà kể lại chi tiết về cái chết và cuộc an táng Đức Chúa chúng ta cho họ nghe và một lần nữa tất cả đều đau đớn khóc thương thảm thiết. Khi trời đã khuya, một số ông, trong đó có ông Giuse Arimathê rời phòng ăn hỏi các bà xem có ai muốn về nhà không thì các ông sẵn sàng hộ tống. Một vài người nhận lời và ra về ngay. Nhưng trước khi tới tòa án Caipha thì một số người võ trang xông ra bắt giam ông Giuse vào một tháp nhỏ bỏ hoang.

Những phụ nữ nào không rời Nhà Tiệc Ly thì lui về các phòng nhỏ nói trên để nghỉ ngơi. Họ cột khăn lên đầu, buồn bã ngồi xuống sàn nhà, dựa lưng vào những chiếc đệm kê sát tường. Một hồi lâu, họ đứng lên, trải khăn lên đệm, cởi dép, thắt lưng và áo ngoài rồi nằm xuống cố gắng nghỉ ngơi đôi chút. Vào nửa đêm họ đứng dậy, khoác áo vào, dựng đệm lên và tụ họp chung quanh Đức Mẹ dưới ánh đèn dầu để tiếp tục cầu nguyện với Mẹ.

Khi Đức Trinh Nữ và các bạn thánh thiện đọc kinh khuya xong (một nghĩa vụ thánh mà tất cả con cái trung tín của Chúa vẫn thực hành hoặc vì họ cảm thấy được mời gọi làm như vậy, hoặc để vâng lời chỉ thị do Đức Chúa và Hội Thánh Ngài truyền dạy) thì có tiếng gõ cửa. Đó là ông Gioan và vài môn đệ khác vào đưa họ đến Đền Thờ như các ông đã hứa với các bà. Lập tức các bà khoác áo choàng và theo ngay các ông đến Đền Thờ. Lúc đó khoảng 3 giờ sáng. Họ tiến thẳng lên Đền Thờ vì người Do Thái có thói quen đến đó trước khi trời sáng tiếp theo ngay ngày hôm họ ăn Chiên Vượt Qua. Vì lý do đó mà cửa Đền Thờ được mở ra từ lúc nửa đêm vì lễ nghi hiến tế khởi sự rất sớm. Họ ra đi cũng đúng vào giờ mà các tư tế đóng khằn niêm phong Mộ Huyệt Chúa. Tuy nhiên, quang cảnh trong Đền Thánh khác xa với những dịp tương tự bởi vì mọi hoạt động tế lễ đều dừng lại hết. Địa điểm vắng vẻ tiêu điều. Tất cả đều ra về hết thảy vì những biến cố hôm trước đã làm Thánh Đường trở nên ô uế. Dường như mục đích duy nhất của Đức Trinh Nữ là đến thăm từ biệt nơi mà Mẹ đã sống thời niên thiếu.

Tuy vậy Đền Thờ vẫn mở cửa, đèn đuốc đốt sáng, và theo tập tục đặc biệt ngày hôm đó, dân chúng được phép tự do ra vào tiền đình dành riêng cho các vị tư tế, cũng như ngay sau lễ ăn thịt Chiên Vượt Qua. Như tôi đã nói trước đây, Đền Thờ quả vắng vẻ ngoại trừ một ông tư tế hoặc một người giúp việc nào họa may đang quanh quẩn đó đây. Chỗ nào cũng đầy dấu vết hỗn loạn của những biến cố đã tạo một trạng thái kinh hoàng phi thường trong dân chúng, đó là chưa kể đến việc Đền Thờ trở nên ô uế vì sự có mặt của người chết, và tôi tự nghĩ không hiểu có cách nào thanh tẩy được nữa không?

Hai người con ông Simêon và cháu của ông Giuse Arêmathê thì buồn rầu khi được tin chú của họ bị bắt, nhưng họ thành kính đón tiếp Đức Trinh Nữ và các bạn của Mẹ và hướng dẫn các bà xem khắp mọi nơi, một việc không khó khăn gì vì họ giữ chức vụ thanh tra của Đền Thánh. Các phụ nữ thánh thiện yên lặng hãi hùng nhìn vết tích của cơn thịnh nộ Đức Chúa và chú ý nghe những chi tiết kinh hoàng mà các hướng dẫn viên của họ kể lại. Hậu quả của cơn động đất dữ dội vẫn còn rõ nét vì chưa ai tìm cách sửa chữa lại hằng bao nhiêu rạn nứt trên tường và nền nhà. Bức tường tại khu vực nối tiền đình với Cung Thánh bị lay động mạnh đến nỗi nứt ra một kẽ hở đủ cho một người lớn đi qua. Phần còn lại rất chênh vênh có thể đổ ụp bất cứ lúc nào. Tấm màn treo trong Cung Thánh bị xé làm đôi nay đã thành hai mảnh vải rách nát treo lủng lẳng hai bên. Chung quanh chỉ còn lại những bức tường nứt nẻ, những viên đá lót nền nhà bị nghiền nát, bao nhiêu cột kèo thì phần gãy phần lung lay xiêu vẹo.

Đức Thánh Trinh Nữ đi thăm hết những nơi mà sự hiện diện của Đức Giêsu đã thánh hóa. Mẹ qùy xuống, hôn tất cả các vị trí này và với đôi mắt đẫm lệ Mẹ cắt nghĩa cho các bà kia biết lý do tại sao Mẹ tôn kính đặc biệt từng chỗ, và bạn người cũng lập tức noi gương Mẹ. Người Do Thái rất kính trọng những nơi được thánh hóa vì Đức Chúa đã biểu hiện quyền năng của Ngài. Họ thường đặt tay và hôn kính lên những chỗ này và phủ phục xuống mảnh đất trước mặt họ. Tôi không ngạc nhiên trước các cử chỉ như vậy vì họ đều biết, nhìn thấy và cảm nghiệm được rằng Thiên Chúa của Abraham, của Isaác, và của Giacob là một Thiên Chúa hằng sống, đang ngự trị giữa dân Người trong Đền Thờ tại Giêrusalem. Do đó nếu họ không tôn kính những nơi mà Đức Chúa đặc biệt biểu dương uy quyền của Người mới là chuyện đáng ngạc nhiên. Đền Thờ và những nơi thánh đối với người Do Thái cũng như Bí Tích Cực Trọng đối với Kitô Hữu. Nhưng giữa họ cũng có một số người mù quáng và một số người sáng suốt, giống như giữa chúng ta, cũng có một số người không thờ phượng Thiên Chúa Hằng Sống đang ngự giữa chúng ta, nhưng lại đi vào các việc dị đoan thờ các tà thần của thế gian. Họ phản ảnh những lời của Đức Giêsu: "Ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, Thầy sẽ chối họ trước mặt Cha Thầy." Những người không ngừng phục vụ các tà thần và sự lầm lạc của thế gian trong tư tưởng, hành động và lời nói, mà bỏ qua các việc thờ phượng Thiên Chúa ở bề ngoài, thì nói rằng, "Chúng tôi thờ phượng Thiên Chúa trong thần khí và trong chân lý." Nhưng họ không biết những lời này có nghĩa là trong Chúa Thánh Thần và trong Chúa Con, Người đã mặc lấy xác phàm nhờ Đức Trinh Nữ Maria, và làm chứng cho sự thật; Người sống giữa chúng ta, Người chết cho chúng ta, và Người sẽ ở với Giáo Hội Chúa trong Bí Tích Cực Trọng cho tới tận thế.

Với lòng tôn kính sâu xa, Đức Trinh Nữ đi khắp Đền Thờ với các bạn và chỉ cho họ thấy nơi Mẹ được dâng vào Đền Thánh khi còn bé, nơi Mẹ sinh trưởng hồi niên thiếu, nơi Mẹ đính hôn với thánh Giuse, và nơi Mẹ đứng dâng Chúa Giêsu vào Đền Thờ và nghe sấm ngôn của ông Simêon. Mẹ nhớ đã khóc cay đắng khi nghe những lời nói của ông vì lời tiên tri quả đã ứng nghiệm và lưỡi gươm đau buồn đã đâm thâu trái tim Mẹ. Một lần nữa Mẹ lại chỉ cho các bạn biết nơi Mẹ tìm thấy Đức Giêsu lên 12 tuổi đang giảng dạy trong Đền Thờ khi Mẹ lạc mất Người trong ba ngày. Mẹ hôn kính chỗ Người đã đứng hôm đó. Khi các bà thánh thiện nhìn thấy hết những nơi mà sự có mặt của Đức Giêsu dã thánh hóa thì các vị rời Đền Thờ trong nước mắt và sự muộn phiền sâu xa. Sự đổ nát hoang tàn ngày hôm ấy càng gây nản chí vì sự khác biệt quá rõ rệt với vẻ huy hoàng của Đền Thờ trong những dịp lễ lạc trước đây. Thay vào lời ca tiếng hát, thánh vịnh vui tươi của những ngày hồng ân thì là bầu không khí yên lặng tang tóc đều khắp trong Đền Thờ vĩ đại; thay vì những nhóm dân thờ lạy hân hoan sùng kính thì nay là một sự hoang vắng ớn lạnh. Than ôi, đúng là lời cảnh báo cho tội ác tầy trời mà dân Chúa đã phạm. Mẹ nhớ lại Đức Giêsu đã khóc thương Đền Thờ như thế nào khi Người nói: "Hãy phá hủy Đền Thờ này đi và trong ba ngày Ta sẽ xây lại." Đức Maria nghĩ đến kẻ thù của Đức Giêsu đã phá hủy Đền Thờ Thân Thể Người như thế nào, và Mẹ nóng lòng trông đợi ngày thứ ba ấy đến để lời Chân Lý Vĩnh Cửu được thể hiện.

Trời vừa hừng sáng thì Đức Maria và các bạn trở về Nhà Tiệc Ly, và các bà lui về căn nhà bên tay mặt Nhà Tiệc Ly, trong khi ông Gioan và một số môn đệ lên Nhà Tiệc Ly, nơi đây có khoảng hai mươi người và họ tập trung cầu nguyện dưới ngọn đèn dầu. Thỉnh thoảng một vài người đến gần cửa, rụt rè đi vào, lại gần nhóm đang tụ tập dưới ngọn đèn, chào hỏi họ vài câu trong nước mắt. Tất cả đều tỏ vẻ kính trọng ông Gioan vì ông đã ở lại với Đức Chúa cho đến chết, trong khi chính họ thì đã hèn nhát bỏ mặc Chúa và Thày mình trong giờ Người cần họ nhất nên cảm thấy xấu hổ. Ông Gioan đơn sơ chân thật như đứa trẻ, đã an ủi mọi người với lòng bác ái và thương cảm thiết tha, làm như ông rất sợ người ta ca tụng ông vậy. Tôi thấy nhóm này hôm đó ăn một bữa cơm nhưng phần lớn đều im lặng, cửa nẻo đều đóng chặt. Không nghe thấy một tiếng động khắp căn nhà. Không ai quấy nhiễu họ vì đây là nhà của ông Nicôđêmô, và ông để họ sử dụng trong thời gian lễ Vượt Qua.