TÁN KẾ VÀ CUỘC KHỞI NGHĨA VÙNG BA CHÂU
Về thời điểm cuộc khởi nghĩa do Tán Kế lãnh đạo, nhiều tài liệu lịch sử ghi chép không giống nhau. Các quyển Monographie de la province de Bến Tre xuất bản năm 1903 và năm 1930 đều ghi năm chết của Tán Kế là 1869. Cuốn La Cochinchine et ses habitants của Baurac xuất bản năm 1894 nói Tán Kế khởi nghĩa ở Ba Động vào thượng tuần tháng 3-1868, ít lâu sau thì bị bắt. Cuốn Kiến Hòa xưa và nay của Huỳnh Minh (1965) khi nói về các nhân vật lịch sử và văn hóa của tỉnh nhà, không có một dòng nào nhắc đến Tán Kế cả. Cuốn Tỉnh Bến Tre trong lịch sử Việt Nam (từ năm 1757 đến 1945) của Nguyễn Duy Oanh (1971) là cuốn sách nói nhiều đến Tán Kế nhất, có cả gia phả Tán Kế từ ông nội đến các cháu chắt, cho rằng Tán Kế bị bắt, bị giam giữ ở đề lao tỉnh và bị “tử hình sáng sớm ngày 11 tháng giêng năm 1875”. Các cuốn Lịch sử Việt Nam thời cận đại (1948), Nam Bộ chiến sử (1949), Việt Nam tranh đấu sử (1949), đều ghi Tán Kế khởi nghĩa năm 1875. Tạp chí Tri tân (bộ mới số 1, H., 6-6-1946) cũng cho là Tán Kế nổi dậy năm Ất Hợi, tức 1875. Nguyễn Nhị Hà, trong bài “Tán Kế và cuộc khởi nghĩa vùng Ba Châu” trong tập Ba Tri – đất và người cho rằng “Tán Kế phất cờ khởi nghĩa vào năm 1867”, nghĩa là cùng lúc với cuộc khởi nghĩa của Phan Liêm – Phan Tôn.
Qua các dẫn liệu trên đây, ta thấy có một sự sai lệch nhau khá rõ về thời điểm diễn ra cuộc khởi nghĩa cũng như ngày giờ hy sinh của Tán Kế chênh nhau từ 6 đến 7 năm (?).
Về địa điểm khởi nghĩa (hay nổi dậy) thì ý kiến gần như thống nhất, trừ sự nhầm lẫn với cuộc khởi nghĩa Ba Động của Baurac trong cuốn La Cochinchine et ses habitants. Về hình phạt của Pháp đối với ông thì hầu như đều nhất trí là ông bị chém đây là hình phạt khá phổ biến mà thực dân Pháp áp dụng lúc bấy giờ đối với những người nổi dậy chống lại chúng, thậm chí có lối “hành quyết tại chỗ” để uy hiếp tinh thần nhân dân – nhưng lại không nhất trí về địa điểm diễn ra. Một tài liệu nói ông bị chém ở khám đường Bến Tre, lại có tài liệu nói ông bị chém ở Giồng Trôm, cụ thể hơn nữa ở chợ Châu Thới, và bị giặc đem bêu đầu ông tại cột cờ, nơi chợ này 3 ngày v.v...
Để xác định được thời điểm cuộc khởi nghĩa của Tán Kế, cần xem lại toàn bộ những cuộc nổi dậy ở vùng này từ sau ngày rơi vào tay giặc Pháp dựa trên các tư liệu lịch sử, đồng thời kết hợp, đối chiếu với những nguồn tư liệu khác như: truyền thuyết, giai thoại dân gian, gia phả, bia mộ còn lưu giữ được đến nay.
Như ta biết, trong khoảng thời gian Bến Tre rơi vào tay giặc Pháp (6-1867) cho đến khi triều đình Huế ký “hòa ước Giáp Tuất” (1874), giao trọn quyền cai trị 6 tỉnh Nam Kỳ cho Pháp, riêng trên đất này đã diễn ra hàng chục cuộc nổi dậy, tấn công địch có tổ chức lớn hay nhỏ, hoặc những cuộc bất hợp tác với giặc làm kế “vườn không nhà trống”, cả làng kéo nhau bỏ đi nơi khác như đã diễn ra ở làng Quới Điền (tổng Minh Phú), ở làng An Thới (tổng Minh Huệ). Tuy nhiên, xét trên quy mô tổ chức, diện lan rộng của phong trào cùng tác động và ảnh hưởng của nó đối với tình hình lúc bấy giờ, thì chỉ có hai cuộc nổi dậy đáng được gọi là “khởi nghĩa” mà thôi. Đó là cuộc khởi nghĩa do hai anh em Phan Liêm – Phan Tôn lãnh đạo ở vùng Bảo An và cuộc khởi nghĩa do Tán Kế (Lê Quang Quan) lãnh đạo ở vùng Ba Châu. Lần theo đầu mối và tiến trình diễn biến của các cuộc nổi dậy, kết hợp cùng với những thông tin rút ra từ các báo cáo, nhận định và phương sách đối phó của địch, ta có thể kết luận được như sau:
Về quy mô, cuộc khởi nghĩa của Tán Kế nhỏ hơn, diện hưởng ứng của nhân dân cũng hẹp hơn cuộc khởi nghĩa của hai anh em họ Phan diễn ra trong tháng 8-1867, nghĩa là cùng tháng mà người cha họ vừa mất (4-8-1867), cùng việc tổ chức tang ma và việc di chuyển thi hài từ Vĩnh Long về Bảo Thạnh. Vậy thì hai anh em họ Phan vận động, tổ chức lực lượng chuẩn bị khởi nghĩa vào lúc nào? Do đó, vấn đề đặt ra là phải chăng ý thức nổi dậy chống Pháp đã chín muồi trong nhân dân và đã bộc phát ở một số nơi, còn Phan Liêm, Phan Tôn do biết nắm bắt được thời cơ ấy, cộng với uy tín của người cha sẵn có trong nhân dân, đã nhanh chóng trở thành người lãnh đạo của cuộc khởi nghĩa (?). Đây là chỗ khác nhau giữa cuộc khởi nghĩa này với cuộc khởi nghĩa của Tán Kế về phương diện vận động, tập hợp, tổ chức lực lượng chiến đấu, kể cả việc kết thúc cuộc khởi nghĩa.
Người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa vùng Ba Châu vốn xuất thân từ quân đội triều đình, đã từng tham gia đánh Pháp ở thành Gia Định, sau đó bất bình về sự đầu hàng của nhà Nguyễn, đã bỏ về quê chiêu mộ lực lượng, phất cờ khởi nghĩa. Nơi ông chọn làm căn cứ là vùng Ba Châu (gồm các làng Châu Phú, Châu Thới, Châu Bình) nay thuộc huyện Giồng Trôm, giáp với các làng Phong Mỹ, Phong Nẫm (Giồng Trôm), Ba Mỹ, Tân Xuân nay thuộc huyện Ba Tri. Đây là một vùng có địa thế hiểm trở, có rừng dày, lau sậy, chà là rậm rạp thuận tiện cho việc trú quân và cất giấu lương thực. Nơi đây có thể tiến thoái khi cần, nhờ đó mà duy trì được cuộc chiến đấu dài ngày.
Căn cứ vào tài liệu lịch sử, ta thấy cuộc khởi nghĩa của Tán Kế diễn ra sau khi cuộc khởi nghĩa của Phan Liêm, Phan Tôn đã thất bại, nghĩa là chỉ có thể xảy ra sau năm 1867. Mặc dù thực dân Pháp ra sức đàn áp, nhưng nghĩa quân đã mở nhiều cuộc tấn công như trận đánh vào làng Phú Ngãi và làng Tân Điền (8-1869) vào làng Đồng Xuân (51869) giết chết tên cai tổng Trị và người em là xã trưởng ở đây. Nhưng do tương quan lực lượng chênh lệch, nghĩa quân hầu hết là nông dân được trang bị quá thô sơ, không được huấn luyện về kỹ thuật tác chiến, cho nên lực lượng bị tiêu hao dần.
Cuối cùng, trong lúc khó khăn, ông phải giải tán quân sĩ, chọn một số thân tín, rút lui vào rừng để chờ thời cơ mới. Một tên phản bội đã điềm chỉ cho giặc Pháp biết nơi ông ẩn náu, chúng đã bắt được ông, đưa về hành quyết tại Châu Thới, sau đó đem bêu đầu ông tại cột cờ chợ này ba ngày đêm để uy hiếp tinh thần dân chúng.
Cuộc khởi nghĩa tuy kết cục thất bại, nhưng hành động yêu nước bất khuất của ông mãi mãi là niềm tự hào của nhân dân Bến Tre. Cảm phục về cái chết của người anh hùng đất Ba Châu, nhân dân đã lập miếu thờ ông ở những nơi mà ông và đội nghĩa quân thường qua lại hoạt động. Hiện nay, một đền thờ Tán Kế khang trang được xây dựng ngay tại quê ông để tưởng nhớ đến người anh hùng.
Địa chí Bến Tre