Bối cảnh lịch sử
Sau sự kiện Nam Kỳ khởi nghĩa (ngày 23-11-1940), phong trào cách mạng ở Nam Bộ bị đàn áp khốc liệt. Tại Bến Tre, nhiều cán bộ, đảng viên bị bắn giết, giam cầm, Tỉnh ủy và các quận ủy đều bị tan rã. Ba Tri là nơi có phong trào hoạt động mạnh, Quận ủy được tái lập, do đồng chí Nguyễn Tẩu làm Bí thư. Vào cuối tháng 2-1944, Quận ủy đã triệu tập một cuộc họp ở Giồng Chuối, làng An Đức (Ba Tri) thống nhất thành lập “Ủy ban Sáng kiến”. Đến tháng 12-1944, Ủy ban Sáng kiến đã triệu tập cuộc họp tại làng Phước Long, quận Châu Thành (nay thuộc huyện Giồng Trôm) cử ra Tỉnh ủy lâm thời do đồng chí Nguyễn Tẩu làm Bí thư.
Cùng thời gian này, đồng chí Trần Văn Giàu - Bí thư Xứ ủy (Tiền Phong) do chưa liên lạc được với Tỉnh ủy lâm thời, nên đã móc nối liên lạc với một số đảng viên ở tỉnh lỵ (TP. Bến Tre ngày nay), đã thành lập một Tỉnh ủy lâm thời khác, do đồng chí Đỗ Văn Khuyến làm Bí thư. Tháng 3-1945, đồng chí Dương Khuy, đại diện Xứ ủy Nam Kỳ đã triệu tập hội nghị thống nhất hai Tỉnh ủy lại, do đồng chí Nguyễn Tẩu làm Bí thư.
Nắm thời cơ, chuẩn bị lực lượng
Sau đảo chính lật đổ thực dân Pháp, độc chiếm Đông Dương (9-3-1945), phát-xít Nhật đưa Phan Văn Chỉ - nguyên Đốc phủ sứ quận Ba Tri lên làm Tỉnh trưởng Bến Tre, giữ nguyên bộ máy chính quyền tay sai từ quận đến làng.
Tại Bến Tre, tháng 7-1945, tổ chức Thanh niên Tiền phong được thành lập, do đồng chí Ca Văn Thỉnh làm thủ lĩnh. Thanh niên Tiền phong ra đời thu hút đông đảo thanh niên, trí thức, công chức, sinh viên, học sinh, tạo thành một khí thế sôi sục trong các tầng lớp nhân dân từ thành thị đến nông thôn. Ngoài ra, Đảng bộ đã tranh thủ được một số người yêu nước trong Đảng Quốc gia Độc lập tham gia vào Mặt trận Việt Minh. Mặt trận Việt Minh được xây dựng có hệ thống từ tỉnh đến quận, xã, kết nạp nhiều hội viên. Đến tháng 7-1945, các nghiệp đoàn có 900 người, nông hội có 7.000 hội viên.
Ngày 25-6-1945, Xứ ủy Nam Kỳ họp ra nghị quyết chỉ đạo các địa phương chuẩn bị Tổng khởi nghĩa, hướng dẫn công việc cần tiến hành trong cuộc khởi nghĩa. Cuối tháng 7-1945, Tỉnh ủy Bến Tre triệu tập Hội nghị mở rộng tại ngã tư Giồng Dầu (ngã tư Phú Khương ngày nay). Tỉnh ủy kiểm điểm tình hình chuẩn bị lực lượng, nhận thấy cơ sở đảng ở các huyện được tổ chức khá rộng. Số đảng viên trong toàn tỉnh lúc này được gần 200. Hội nghị nhận định: Việc khởi nghĩa giành chính quyền có nhiều thuận lợi khách quan. Phương hướng chính là sử dụng quân sự. Tập trung lực lượng giành chính quyền tại tỉnh lỵ. Ở các quận, giao cho số đồng chí bố trí sẵn sàng lực lượng, khi có lệnh thì đưa về tỉnh, còn lại một số chuẩn bị chiếm dinh quận và đồn cảnh sát.
Ngày 15-8-1948, phát-xít Nhật đầu hàng vô điều kiện quân Đồng minh. Tỉnh ủy quyết định thành lập Ủy ban Khởi nghĩa, lãnh đạo xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang cách mạng, gấp rút tổ chức Cứu quốc quân, Cảm tử quân, đưa người của ta vào nắm các chức vụ chủ chốt trong Thanh niên Tiền phong và nắm hoàn toàn Thanh niên Tiền phong cấp tỉnh, quận, xã, đưa người của ta vào trường huấn luyện của Đảng Quốc gia Độc lập ở Hưng Khánh Trung, trường đào tạo Bảo an binh. Lực lượng cách mạng tỉnh có hàng ngàn đội viên Cứu quốc quân, Cảm tử quân và lực lượng Thanh niên Tiền phong đông đảo cùng hàng ngàn hội viên nông hội, nghiệp đoàn.
Tổng khởi nghĩa giành chính quyền
Ngày 23-8-1945, đại biểu Tỉnh ủy đi dự Hội nghị Xứ ủy trở về. Ủy ban Khởi nghĩa quyết định: Đêm 23-8-1945, căng biểu ngữ, rải truyền đơn, đọc lời kêu gọi nhân dân nổi dậy lật đổ chính quyền bù nhìn, thiết lập chính quyền cách mạng. Sáng 24-8-1945, Việt Minh ra công khai, lấy Câu lạc bộ Thị xã làm trụ sở.
Theo chỉ đạo của Ủy ban Khởi nghĩa tỉnh, ngày 24 và 25-8-1945, các đồng chí lãnh đạo ở các quận tập hợp lực lượng quần chúng, Thanh niên Tiền phong, Cứu quốc quân, số nòng cốt của cách mạng bí mật theo đường bộ, đường sông về tiếp cận vùng ven tỉnh lỵ, phối hợp với lực lượng của tỉnh nổi dậy giành chính quyền.
Ngày 23-8-1945, ở các làng Hưng Khánh Trung, Phước Mỹ Trung, nhân dân đã tổ chức rải truyền đơn, căng biểu ngữ. Trưa ngày 25-8-1945, tên Cò Lắm chỉ huy Bảo an binh đi gom súng của bọn cai tổng và các đồn lẻ ở Mỏ Cày. Ủy ban Khởi nghĩa nhận định: Đây là cơ hội thuận lợi để nhanh chóng tước vũ khí của bọn Bảo an binh, chỗ dựa duy nhất và cuối cùng của chính quyền thân Nhật. Vì vậy, Ủy ban Khởi nghĩa quyết định: Cấp tốc huy động quần chúng, Thanh niên Tiền phong, Cứu quốc quân đúng 16 giờ chiều ngày 25-8-1945 tấn công trại Bảo an binh (còn gọi là Dinh Thủ hộ, Garde Civil Local - nay là công viên An Hội, TP. Bến Tre), tòa bố, kho bạc, nhà bưu điện, nhà máy điện, trại giam và bao vây Dinh Tỉnh trưởng, ra lệnh cho binh lính và nhân viên của địch đầu hàng. Trước khí thế của quần chúng khởi nghĩa, bọn Bảo an tê liệt, không dám chống cự, giao nộp vũ khí (thời điểm này có một tốp lính Nhật đóng ở một chành lúa Phú Hưng nhưng bọn chúng hoang mang nằm im không dám phản kháng). Tỉnh trưởng Phan Văn Chỉ phải chấp nhận đầu hàng, chính quyền thân Nhật tại Bến Tre bị sụp đổ. Chính quyền về tay nhân dân lúc 17 giờ chiều ngày 25-8-1945, sớm hơn dự kiến.
Cùng ngày, khởi nghĩa ở quận Mỏ Cày giành thắng lợi. Đêm 25 và rạng sáng ngày 26-8-1945, cuộc khởi nghĩa tiếp tục giành thắng lợi ở các quận Ba Tri, Thạnh Phú. Cuộc khởi nghĩa đã nhanh chóng thành công trên toàn tỉnh. Sáng ngày 26-8-1945, UBND Cách mạng lâm thời tỉnh Bến Tre do đồng chí Phạm Văn Bạch làm Chủ tịch đã ra mắt đồng bào trong cuộc mít-tinh trọng thể tại Sân vận động tỉnh. Tiếp đó, UBND cách mạng các quận cũng được thành lập và ra mắt nhân dân.
Ý nghĩa và bài học kinh nghiệm
Cách mạng Tháng Tám ở Bến Tre là kết quả của quá trình đấu tranh 78 năm (1867 - 1945) và 15 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng (1930 - 1945) của nhân dân tỉnh nhà, biết bao gian khổ hy sinh, góp phần cùng dân tộc phá tan xiềng xích nô lệ của Pháp - Nhật, chế độ phong kiến, lập ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Nhân dân Bến Tre lần đầu tiên giành được chính quyền trên toàn tỉnh. Đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của cách mạng tỉnh nhà; góp phần cùng cả nước mở ra kỷ nguyên giải phóng dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Cách mạng Tháng Tám thành công đã làm tăng thêm lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của đảng.
Thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám ở Bến Tre là kết quả của công tác xây dựng Đảng. Đảng bộ Bến Tre qua nhiều lần bị địch đàn áp khủng bố ác liệt, tổn thất to lớn, nhưng nhờ có một đội ngũ cán bộ, đảng viên kiên cường bất khuất, được tôi luyện vững vàng đã bền bỉ vượt qua khó khăn, gian khổ, hy sinh phấn đấu cho lý tưởng, xây dựng Đảng vững mạnh để làm hạt nhân lãnh đạo cách mạng, khi thời cơ đến, cùng nhân dân nổi dậy khởi nghĩa giành chính quyền.
Cách mạng Tháng Tám ở Bến Tre là thắng lợi của phương pháp cách mạng. Tỉnh ủy đã vận dụng linh hoạt sáng tạo đường lối cách mạng của Đảng, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, kết hợp đúng đắn 2 nhiệm vụ chống đế quốc và phong kiến, thấu suốt quan điểm bạo lực, kết hợp giữa đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, dựa vào khối liên minh công nông tranh thủ các tầng lớp, thành phần yêu nước khác vào một mặt trận, lôi kéo các phần tử trung gian, lưng chừng, thành sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, chĩa mũi nhọn vào phát-xít Nhật, thực dân Pháp và tay sai.
Thời gian đã lùi xa, 75 năm đã đi qua nhưng tầm vóc ý nghĩa thắng lợi, bài học kinh nghiệm của cuộc Cách mạng Tháng Tám là một trong những trang chói lọi nhất trong lịch sử và ngày càng tỏa sáng của nhân dân Bến Tre, đến nay vẫn còn nguyên giá trị trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Vũ Hồng Thanh - Nguyên Trưởng ban Tuyên giáo Tỉnh ủy