III. PHONG TRÀO YÊU NƯỚC VÀ CÁCH MẠNG CỦA NHÂN DÂN BẾN TRE TỪ 1930 ĐẾN CUỘC CMT8-1945.
Từ sau năm 1925, dưới tác động của VNTNCMĐCH, phong trào yêu nước và cách mạng của nhân dân ta có những bước phát triển mạnh. Trong những năm 1927, 1928, 1929, hàng chục cuộc bãi công của công nhân diễn ra ở nhiều xí nghiệp, trong đó tiêu biểu nhất là cuộc đấu tranh của công nhân nhà máy xi măng Hải Phòng, nhà máy sửa chữa ô-tô Avia (Hà Nội), đồn điền cao su Phú Riềng (Thủ Dầu Một). Bên cạnh đó, phong trào đấu tranh của nông dân chống cướp đất, đòi chia ruộng công, chống sưu cao thuế nặng cũng liên tiếp nổ ra tại một số tỉnh Nam Kỳ, Trung Kỳ và Bắc Kỳ cùng với một số cuộc bãi khóa của học sinh và bãi chợ của tiểu thương.
Trong thực tiễn của làn sóng dân tộc dân chủ đang cuồn cuộn dâng lên khắp nước, VNTNCMĐCH không đủ khả năng lãnh đạo cách mạng nữa. Một xu thế cách mạng mới xuất hiện, đòi hỏi phải có sự lãnh đạo của một chính đảng thật sự của giai cấp công nhân. Đáp ứng yêu cầu bức thiết đó của cách mạng, 3 tổ chức cộng sản lần lượt ra đời ở ba miền Trung, Nam, Bắc. Nhưng sự song song tồn tại của ba tổ chức cộng sản chỉ làm yếu sự thống nhất về tư tưởng, chính trị và tổ chức, làm giảm sức mạnh của phong trào cách mạng Việt Nam.
Để khắc phục tình trạng đó, ngày 3–2–1930, tại Cửu Long, bên cạnh Hương Cảng (Trung Quốc), Nguyễn Ái Quốc, với tư cách là đại diện Quốc tế Cộng sản, đã chủ trì cuộc hội nghị đại biểu của 3 tổ chức cộng sản, quyết định thống nhất các tổ chức cộng sản trong nước thành một ĐCS duy nhất, lấy tên là ĐCS Đông Dương.
Sau khi ĐCS được thành lập, việc thống nhất các tổ chức Đảng ở các nơi trong nước lập tức được triển khai. Tại Nam Kỳ, ngay trong tháng 2–1930, Ban lâm thời chấp ủy (tức Xứ ủy) đã được cử ra, gồm 4 đồng chí, do đồng chí Bách (tức Ngô Gia Tự) làm Bí thư. Sau đó, Xứ ủy Nam Kỳ chỉ định các tỉnh ủy lâm thời để lãnh đạo phong trào và xây dựng tổ chức Đảng ở cơ sở.
Tại Bến Tre, tháng 4–1930, thực hiện quyết định của XUNK về việc xây dựng cơ sở Đảng ở đây, Tỉnh ủy lâm thời Mỹ Tho đã cử một Ban cán sự gồm 3 đồng chí Nguyễn Văn Nguyễn, Nguyễn Văn Ân, Nguyễn Văn Trí về hoạt động.
Ban cán sự đã phân công đồng chí Nguyễn Văn Ân phụ trách cù lao Bảo, đồng chí Nguyễn Văn Trí phụ trách cù lao Minh, đồng chí Nguyễn Văn Nguyễn phụ trách chung. Hai đồng chí Nguyễn Văn Trí, và Nguyễn Văn Ân chọn Tân Xuân (cù lao Bảo) và Bình Khánh, Phước Hiệp (cù lao Minh), là những nơi có nhiều hội viên để gầy dựng cơ sở Đảng trước, từ đó sẽ phát triển dần tổ chức ra toàn tỉnh.
Cuối tháng 4–1930, trên cơ sở những đảng viên được kết nạp cùng với số đảng viên được chuyển từ VNTNCMĐCH sang, đồng chí Nguyễn Văn Ân đã thay mặt Tỉnh ủy lâm thời Mỹ Tho thành lập chi bộ đầu tiên của Bến Tre tại xã Tân Xuân (Ba Tri), gồm 11 đảng viên 37 do đồng chí Trần Văn An làm Bí thư. Đây là hạt nhân lãnh đạo cách mạng đầu tiên của tỉnh.
Sau ngày thành lập, chi bộ Tân Xuân đi ngay vào hoạt động, tổ chức các buổi diễn thuyết bí mật, rải truyền đơn, treo cờ Đảng, tuyên truyền đường lối cách mạng trong quần chúng, tổ chức các đoàn thể: nông hội, công hội, thanh niên...
Ngày 1–5–1930, nhân ngày Quốc tế lao động, chi bộ tổ chức một cuộc biểu dương lực lượng tại địa phương, thu hút trên 200 người tham dự. Cuộc biểu tình đầu tiên này đã tạo được khí thế cách mạng trong quần chúng.
Tháng 6–1930, Liên tỉnh ủy Bến Tre Mỹ Tho được thành lập, do đồng chí Nguyễn Thiệu làm Bí thư. Liên tỉnh ủy ra tờ báo Dân cày®) làm cơ quan tuyên truyền, và cử đồng chí Nguyễn Thiệu sang Bến Tre hoạt động. Tại đây, sau cuộc biểu tình ngày 1–5, tuy địch bố ráp liên miên, nhưng nhờ nắm vững nguyên tắc hoạt động bí mật, nên tổ chức Đảng và tổ chức quần chúng vẫn tồn tại và phát triển. Số xã có đảng viên ngày một tăng. Đến tháng 6–1930, Bến Tre đã có thêm chi bộ ghép ở Phú Lễ và Phú Ngãi.
Được tổ chức và lãnh đạo, phong trào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ, chống khủng bố của quần chúng bắt đầu nổ ra nhiều nơi. Kỷ niệm ngày Công xã Paris (18-3), các xã Tân Xuân, Phú Lễ, Phú Ngãi, Châu Bình đều có tổ chức mít-tinh, biểu tình. Phong trào lan ra các xã Bảo Thạnh, Mỹ Chánh và đến cả thị xã.
Ở cù lao Minh và An Hóa, ở các xã trước đây có hội viên VNTNCMĐCH hoạt động, phong trào cũng phát triển khá nhanh. Đến tháng 10–1930, toàn tỉnh Bến Tre đã có 7 chi bộ ở 2 cù lao Minh và Bảo và một số đảng viên hoạt động rải rác ở các xã.
Giữa lúc phong trào đấu tranh đòi dân sinh dân chủ của nhân dân trong tỉnh đang phát triển, thì trên phạm vi cả nước thực dân Pháp cũng đang tập trung sức đàn áp khốc liệt phong trào cách mạng, nhất là phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh.
Trước tình hình ấy, tháng 10–1930, Ban chấp hành TƯĐCS chủ trương phát động một phong trào đấu tranh chống khủng bố trắng, ủng hộ Xô viết Nghệ Tĩnh.
Thực hiện chủ trương trên, Đảng bộ Bến Tre liên tiếp tổ chức các cuộc mít-tinh, biểu tình trong những tháng cuối năm 1930 đầu năm 1931. Mở đầu là cuộc biểu tình của hơn 1.000 quẩn chúng ở vùng Ba Châu (Châu Bình, Châu Phú, Châu Thới) do đồng chí Huỳnh Khắc Mẫn (Mười Mắn), Bí thư chi bộ Châu Bình và đồng chí Nguyễn Thiệu lãnh đạo nổ ra vào tháng 11–1930. Quần chúng với giáo, mác, gậy, gộc kéo đến trụ sở xã Châu Bình, hô vang các khẩu hiệu cách mạng, sau đó kéo vào đập phá nhà việc, đốt hết sổ sách của hội tề. Từ Châu Bình, quần chúng tiếp tục kéo đến phá trụ sở 2 làng Châu Phú, Châu Thới, tổ chức mít tinh kêu gọi đấu tranh “giành lợi quyền”.
Sau sự kiện này, bộ máy cai trị của địch ở ba xã bị lung lay. Chúng chưa hết hoang mang thì một cuộc biểu tình quy mô lớn diễn ra trên địa bàn 2 huyện Ba Tri, Giồng Trôm, bao gồm các xã: Tân Xuân, Phú Lễ, Phú Ngãi, Ba Mỹ, Phước Tuy, Bảo Thạnh, Châu Bình, Châu Phú, Châu Thới, Phong Nẫm, Phong Mỹ, do các đồng chí Nguyễn Thiệu, Huỳnh Khắc Mẫn, Nguyễn Văn Trước, Nguyễn Văn Ân lãnh đạo.
Lực lượng biểu tình gồm trên 1.000 người, có vũ trang giáo mác, gậy gộc, chia làm hai cánh: cánh thứ nhất tập trung tại xã Tân Xuân, cánh thứ hai tập trung ở Châu Bình; mỗi cánh đều có tổ chức đội tự vệ chặt cây ngăn lộ, phá đường, cản địch đến đàn áp. Họ kéo vào các nhà việc, đốt sổ sách. Bọn tề xã hoảng sợ bỏ trốn.
Để đối phó, nhà cầm quyền thực dân tập trung lực lượng lính sen đầm từ Mỹ Tho, Lương Quới, Giồng Trôm, Ba Tri kéo đến đàn áp. Tại Ba Tri, đội tự vệ của ta đã chống cự kịch liệt với lính địch ở ngã ba lộ Quẹo (Tân Xuân). Địch dùng súng bắn xả vào đoàn biểu tình, làm chết và bị thương một số người, trong đó có đồng chí Nguyễn Văn Ngươn, đội trưởng đội tự vệ, và bắt đi một số người khác.
Ở Giồng Trôm, địch phục kích bến đò Phong Nẫm, bắt được một số cán bộ lãnh đạo trong đó có đồng chí Nguyễn Thiệu, Bí thư Liên tỉnh ủy Mỹ Tho Bến Tre. Sự khủng bố của địch làm cho nhiều cơ sở cách mạng bị bể, bị tiêu hao, phong trào trong tỉnh giảm sút nghiêm trọng.
Trước tình hình trên, Liên tỉnh ủy Mỹ Tho Bến Tre tập trung chỉ đạo các chi bộ ở các xã nhanh chóng củng cố tư tưởng của cán bộ đảng viên nhằm giữ vững phong trào. Đến tháng 1– 1931, truyền đơn, biểu ngữ lại xuất hiện ở một số nơi trong tỉnh. Tiếp đến tháng 2–1931, hai cuộc biểu tình nổ ra ở Long Mỹ và Bình Thành (Ba Tri) với hơn 1.000 người tham gia.
Từ tháng 3 đến tháng 5-1931, phong trào lên đến đỉnh cao với 16 cuộc biểu tình lớn nhỏ, nổ ra ở khắp các nơi trong tỉnh như Tân Thủy, Tân Hưng, Tân Xuân, Châu Bình, Long Mỹ, Bình Thành thuộc quận Ba Trị; Phú Nhuận, Phước Long thuộc quận Châu Thành; An Thạnh, An Qui thuộc quận Thạnh Phú; Lộc Thuận thuộc quận An Hóa.
Tháng 5–1931, Tỉnh ủy Bến Tre chính thức được thành lập, do đồng chí Nguyễn Văn Nguyễn làm Bí thư. Sau khi thành lập, Tỉnh ủy bắt tay ngay vào việc chấn chỉnh lại tổ chức, củng cố các cơ sở Đảng ở địa phương, nhưng lại vấp phải một đợt khủng bố mới của địch. Chúng đánh phá phần lớn các cơ sở, bắt đi nhiều cán bộ, trong đó có các đồng chí Nguyễn Văn Nguyễn, Bí thư Tỉnh ủy (7–1931) và Nguyễn Văn Trước (5–1932). Tỉnh ủy bị tan rã. Hàng trăm cán bộ, đảng viên và quần chúng cách mạng bị bắt. Cuối năm 1932, phong trào trong tỉnh bị suy yếu và lắng dần.
Tình hình này kéo dài cho đến năm 1935. Lúc này, trên thế giới và trong nước xảy ra những sự kiện mới có ảnh hưởng đến phong trào cách mạng cả nước nói chung và phong trào cách mạng của Bến Tre nói riêng.
Trên thế giới, bọn phát xít Đức, Ý, Nhật ráo riết chuẩn bị chiến tranh đe dọa hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội. Ở Pháp, ĐCS liên minh với Đảng Xã hội, Đảng Cấp tiến thành lập Mặt trận Nhân dân Pháp (tháng 11-1935). Trong cuộc bầu cử Quốc hội tháng 4-1936, Mặt trận Nhân dân Pháp đã giành được thắng lợi và lên cầm quyền, Chính phủ Mặt trận Nhân dân Pháp ban bố một số cải cách dân chủ đối với thuộc địa, trong đó chủ trương ân xá chính trị phạm và thành lập một phái đoàn Quốc hội Pháp đi điều tra tình hình ở các thuộc địa.
Sự kiện đó đã tác động mạnh đến Đông Dương. Bọn cầm quyền Pháp ở Đông Dương, trước sức ép của Chính phủ Mặt trận Nhân dân và phong trào Dân chủ ở Pháp, đã phải miễn cưỡng thực hiện việc ân xá chính trị. Nhiều đảng viên, cán bộ của ta bị giam ở các nhà tù đế quốc được thả ra.
Trong bối cảnh chung ấy, ở Bến Tre, đến năm 1936, số đảng viên cốt cán ra khỏi tù, trở về địa phương tương đối đông. Về tới địa phương, các đồng chí đã tìm bắt liên lạc với nhau để khôi phục lại các cấp lãnh đạo của Đảng ở trong tỉnh. Nhờ sự nỗ lực vượt bậc của các đồng chí, trong một thời gian ngắn, các chi bộ Đảng được khôi phục ở thị xã và các xã Tân Xuân, Mỹ Chánh Hòa, Vĩnh Hòa, Phú Ngãi thuộc quận Ba Tri; Phước Long, Bình Chánh thuộc quận Châu Thành; Định Thủy, Khánh Thạnh Tân, An Thạnh thuộc quận Mỏ Cày. Cuối năm 1936, Tỉnh ủy Bến Tre được củng cố lại, do đồng chí Nguyễn Văn Triều (tức Ba Chà) làm Bí thư. Đến năm 1937, hai Quận ủy Thạnh Phú và Mỏ Cày được thành lập.
Tỉnh ủy chủ trương đưa một bộ phận đảng viên có uy tín ra hoạt động công khai và bán công khai trong các hội Ái hữu của thợ cưa, thợ cắt tóc, các hội thể dục thể thao, vạn cấy để hướng dẫn các tầng lớp quần chúng tham gia đấu tranh cách mạng.
Tỉnh ủy xuất bản tờ báo Cờ chiến đấu làm cơ quan tuyên truyền công khai, phổ biến các sách báo của Đảng và lưu hành rộng rãi tờ báo Dân chúng, tổ chức các buổi diễn thuyết nhằm phổ biến chủ trương của Đảng trong quần chúng lao động.
Vào giữa năm 1936, nhân việc Chính phủ Mặt trận Nhân dân Pháp dự định cử một phái đoàn sang Đông Dương điều tra tình hình, thu thập nguyện vọng quần chúng, TƯĐCS đã phát động một cuộc vận động đòi triệu tập Đông Dương Đại hội thông qua bản “thỉnh nguyện” chung.
Hưởng ứng cuộc vận động, tại Bến Tre, tháng 7–1936, “Ủy ban hành động” của tỉnh được thành lập, để tập họp quần chúng đưa kiến nghị và bầu đại biểu đi dự đại hội. Đến cuối năm 1936, các “Ủy ban hành động” được thành lập ở đều khắp các quận và ở nhiều xã. Trong giai đoạn này, phong trào đấu tranh đòi dân sinh dân chủ đã nổ ra liên tục trong tỉnh.
Mở đầu cho phong trào là cuộc đình công đòi tăng lương của 130 thợ cưa ở các xưởng gỗ Bến Tre nổ ra ngày 21-1-1936. Tháng 1–1938, lại nổ ra 2 cuộc đấu tranh đòi tăng lương của thợ bạc ở thị xã và công nhân nhà in Vân Võ Văn.
Hòa nhịp với phong trào đấu tranh ở thành thị, nông dân nhiều nơi cũng đứng lên đấu tranh đòi giảm thuế, đòi chia lại công điền, công thổ, đòi địa chủ phải tăng tiền công cấy, công gặt. Tiêu biểu là cuộc đấu tranh của 35 nông dân ở Phước Long, yêu cầu giảm thuế và đấu giá công điền, nổ ra ngày 5–4–1938, và cuộc đấu tranh của 30 nông dân ở Định Thủy (Mỏ Cày) tháng 11–1938, đòi được tham gia phân phối công điền và đòi bỏ thuế thân.
Cũng trong thời gian này, tù nhân trong khám Bến Tre đã tuyệt thực phản đối chế độ bạc đãi hà khắc của nhà tù, đòi cải thiện chế độ ăn uống. Các cuộc đấu tranh cho dân sinh dân chủ ở Bến Tre là một bước chuẩn bị quan trọng cho cao trào cách mạng phản đế của tỉnh sau này. Qua phong trào, ảnh hưởng của Đảng được mở rộng trong các tầng lớp nhân dân, tạo điều kiện cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trong giai đoạn tới.
Tháng 9–1939, cuộc chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Thực dân Pháp ở Đông Dương liền lợi dụng cơ hội này, đàn áp khốc liệt phong trào cách mạng của nhân dân ta, đồng thời ban bố lệnh tổng động viên, ra sức vơ vét sức người, sức của, phục vụ cho chiến tranh ở chính quốc. Khả năng hoạt động hợp pháp không còn nữa. Trước tình hình đó, TƯĐCS đã kịp thời chỉ thị cho các cán bộ, đảng viên hoạt động hợp pháp và nửa hợp pháp nhanh chóng rút vào bí mật, chuyển trọng tâm công tác về nông thôn, biến nông thôn thành chỗ đứng chân vững chắc của cách mạng, phát triển lực lượng ở cả nông thôn và thành thị.
Tháng 11–1939, BCHTƯĐCS họp Hội nghị lần thứ 6, đề ra chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, coi giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu, tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất, chỉ đề ra khẩu hiệu tịch thu ruộng đất cửa bọn đế quốc và bọn địa chủ phản động, quyết định thành lập Mặt trận Dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương, để tập họp rộng rãi các tầng lớp nhân dân vào hàng ngũ cứu nước.
Tháng 6–1940, nước Pháp bị phát xít Đức chiếm đóng. Tháng 9-1940, phát xít Nhật nhân cơ hội đó xâm lược Đông Dương. Thực dân Pháp đầu hàng rồi làm tay sai cho Nhật đàn áp phong trào cách mạng nước ta. Ở Nam Kỳ, từ tháng 10–1940, chúng lại điều động nhiều binh lính Việt Nam sang Campuchia đánh nhau với quân Thái Lan ở vùng biên giới, gây nên một tâm lý bất mãn trong binh lính và quần chúng. Thêm vào đó, tình trạng chiến tranh, hàng hóa thiếu thốn, giá cả lên cao làm cho đời sống của công nhân, dân nghèo thành thị, nông dân trở nên hết sức cơ cực. Do đó, đảng viên cũng như quần chúng ở Nam Kỳ mong muốn đứng lên giải phóng đất nước, lật đổ ách thống trị của đế quốc Pháp.
Trước yêu cầu khẩn thiết của phong trào cách mạng, đồng thời bị thúc đẩy trước tình hình đánh phá ngày càng ác liệt của kẻ địch, XUNK đã cân nhắc qua nhiều cuộc họp, và cuối cùng quyết định chuẩn bị khởi nghĩa. Đồng chí Phan Đăng Lưu được cử ra Bắc để xin ý kiến của TƯĐCS. Nhận định thời cơ khởi nghĩa chưa tới, Hội nghị lần thứ 7 của BCHTƯĐCS tháng 11-1940 đã quyết định hoãn kế hoạch khởi nghĩa ở Nam Kỳ. Nhưng khi đồng chí Phan Đăng Lưu trở lại Sài Gòn ngày 22-11-1940 để truyền đạt chỉ thị của Trung ương về việc hoãn khởi nghĩa, thì mệnh lệnh khởi nghĩa đã được truyền đi khắp nơi, không dừng lại được nữa.
Ở Bến Tre, cuộc khởi nghĩa đã nổ ra đúng vào đêm 22 rạng ngày 23-11–1940. Tại huyện Mỏ Cày dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Phạm Thái Bường – Bí thư Tỉnh ủy – các đội tự vệ cùng với quần chúng tổ chức phá sập cầu Cái Chát Lớn và Cái Chát Nhỏ, làm gián đoạn giao thông trên lộ 6, từ Bến Tre đi Trà Vinh và tổ chức cắt đường dây diện thoại làm đứt liên lạc của địch. Ở ấp Miễu, quận Châu Thành, nhân dân biểu tình tuần hành, rồi xông vào nhà việc các xã Lương Quới, Phong Mỹ phá trụ sở, đốt sổ sách. Cùng lúc, một bộ phận quần chúng tiến hành đào phá đoạn đường từ Mỹ Lồng xuống Giồng Trôm trên lộ 26, cắt dây điện thoại, dựng vật chướng ngại, ngăn cản không cho địch tiếp viện. Ở Ba Tri, quần chúng khởi nghĩa ở các xã Mỹ Nhơn, Mỹ Chánh Hòa, Tân Xuân, xuống đường lùng bắt hội tề.
Thực dân Pháp đã dìm cuộc khởi nghĩa trong biển máu. Sau cuộc khởi nghĩa, ở Bến Tre chúng bắt trên 400 người, một số bị tra khảo đến chết, một số bị đày đến các nhà tù Bà Rá, Tà Lài, Côn Đảo. Hầu hết các đồng chí trong Tỉnh ủy đều bị bắt. Đảng bộ Bến Tre một lần nữa bị tổn thất nặng nề.
Cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ đã bị thất bại, vì nó nổ ra không đúng thời cơ, điều kiện cách mạng chưa chín muồi. Tuy vậy, cuộc khởi nghĩa đã nêu cao tinh thần kiên quyết chống đế quốc, giành độc lập dân tộc, nêu cao khí thể cách mạng của quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nó có tiếng vang lớn trong cả nước, khích động tinh thần yêu nước của đông đảo đồng bào. Cuộc khởi nghĩa cũng cung cấp cho Đảng ta nhiều bài học quí báu về khởi nghĩa vũ trang, thật sự là cuộc tập dượt chuẩn bị cho cuộc Tổng khởi nghĩa toàn thắng trong CMT8 – 1945 sau này.
Đầu năm 1941, giữa lúc phong trào cách mạng ở Nam Kỳ nói chung, Bến Tre nói riêng đang bị khủng bố và gặp khó khăn, thì đồng chí Nguyễn Ái Quốc – sau này là Chủ tịch Hồ Chí Minh trở về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Tháng 5– 1941, Người đã chủ trì Hội nghị Trung ương lần thứ 8, phát triển và hoàn chỉnh các nghị quyết của các Hội nghị Trung ương lần thứ 6 và thứ 7 về vấn đề giải phóng dân tộc. Hội nghị xác định cuộc cách mạng trước mắt là cách mạng giải phóng dân tộc, quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam Độc lập Đồng minh, gọi tắt là Việt Minh, bao gồm các hội Cứu quốc nhằm tập hợp rộng rãi các lực lượng yêu nước đấu tranh cho độc lập, tự do, thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, triệt để phân hóa và cô lập kẻ thù. Hội nghị khẳng định chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của Đảng và nhân dân ta trong giai đoạn cách mạng hiện đại.
Những chủ trương của Hội nghị Trung ương lần thứ 8 đã mở ra bước phát triển mới cho phong trào cách mạng của nhân dân ta ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Trong khi đó ở Nam Kỳ, cho đến đầu năm 1943, Đảng bộ vẫn chưa chắp nối được liên lạc, nhất là liên lạc với Trung ương. Tuy vậy, với tinh thần nhạy cảm trước thời cuộc, nhất là sau chiến thắng Stalingrad của Liên Xô mùa xuân năm 1943, làm chuyển biến mau lẹ cục diện chiến tranh ở châu Âu, các cán bộ, đảng viên ở Nam Kỳ đã tự động củng cố lại tổ chức, gây dựng lại phong trào.
Ở Bến Tre, từ giữa năm 1943 đến đầu năm 1944, một số đảng viên thoát khỏi nhà tù đế quốc trở về Ba Tri, mặc dù chưa bắt liên lạc được với cấp trên, đã chủ động móc nối liên lạc với một số đảng viên còn lại ở địa phương, xây dựng lại cơ sở Đảng và tổ chức quần chúng.
Đến đầu năm 1944, Ba Tri đã khôi phục lại nhiều chi bộ ở các xã Tân Thủy, An Hiệp, Phú Lễ, Tân Xuân, Ba Mỹ, Châu Bình và thành lập được quận ủy. Từ bàn đạp Ba Tri, các tổ chức Đảng cũng nhanh chóng được khôi phục ở các quận Thạnh Phú, Sóc Sãi, Mỏ Cày.
Vào tháng 2–1944, Quận ủy Ba Tri triệu tập một cuộc họp ở Giồng Trôm, có đại biểu của các quận Thạnh Phú, Mỏ Cày, Sóc Sãi đến dự. Hội nghị nhất trí tổ chức một bộ phận lãnh đạo trung tâm, lấy tên là “Ủy ban sáng kiến” do đồng chí Nguyễn Tẩu lãnh đạo, để lấy danh nghĩa ấy tập họp các đảng viên còn hoạt động bí mật ở địa phương, nhằm nhanh chóng xây dựng và phát triển cơ sở Đảng trong tỉnh.
Dưới sự chỉ đạo của “Ủy ban sáng kiến”, đến nửa sau năm 1944, phong trào cách mạng đã phát triển khá rộng. Các quận Châu Thành, Thạnh Phú, Ba Tri, Mỏ Cày lần lượt lập ra quận ủy.
Tháng 12–1944, “Ủy ban sáng kiến” triệu tập các quận ủy về họp tại Phước Long (Giồng Trôm), cử ra Tỉnh ủy lâm thời, do đồng chí Nguyễn Tẩu làm Bí thư, để thống nhất lãnh đạo phong trào.
Nhưng lúc này, ở Bến Tre, ngoài hệ thống tổ chức Đảng nói trên, từ đầu năm 1945, còn hình thành một hệ thống tổ chức Đảng khác bao gồm các cơ sở Đảng ở thị xã và một số vùng xung quanh, do các đảng viên thoát khỏi nhà tù Bà Rá, trở về khôi phục lại. Tổ chức này thành lập một Tỉnh ủy lâm thời ở thị xã Bến Tre, do đồng chí Đỗ Văn Khuyến làm Bí thư.
Để thống nhất sự lãnh đạo của Đảng trong toàn tỉnh, tháng 3-1945, đồng chí Dương Khuy, đại diện XUNK triệu tập hội nghị hợp nhất hai tổ chức Đảng, sắp xếp lại Tỉnh ủy. Đồng chí Nguyễn Tẩu được bầu làm Bí thư Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh, thống nhất sự lãnh đạo, nhằm chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền như Hội nghị Trung ương lần thứ 8 đã đề ra.
Cơ sở cách mạng trong tỉnh vừa mới được khôi phục thì tình hình thế giới và trong nước có những biến đổi lớn. Trên thế giới, cuộc chiến tranh thế giới lần thứ 2 đã đi vào giai đoạn cuối cùng. Hồng quân Liên Xô đã giải phóng nhiều nước Đông Âu, đang truy kích quân đội phát xít Hítle đến Berlin. Ở Thái Bình Dương, phát xít Nhật cũng đang bị quân Đồng minh phản công, liên tiếp bị thất bại.
Trong khi đó, trên đất nước ta, để đề phòng Pháp đánh từ sau lưng, ngày 9–3–1945, Nhật làm đảo chính hất cẳng Pháp, độc chiếm Đông Dương. Ngay khi cuộc đảo chính vừa nổ ra, cuộc họp của Ban Thường vụ TƯĐCS đã nhận định là cuộc đảo chính sẽ tạo ra một tình thế khủng hoảng chính trị sâu sắc, làm cho những điều kiện của cuộc Tổng khởi nghĩa chín muồi nhanh chóng. Hội nghị chủ trương đưa khẩu hiệu “Đánh đuổi phát xít Nhật” thay cho khẩu hiệu “Đánh đuổi Pháp Nhật” và phát động cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ, làm tiền đề cho cuộc Tổng khởi nghĩa.
Chủ trương sáng suốt và kịp thời này đã đưa cách mạng Việt Nam chuyển sang cao trào mới, hết sức sôi sục. Những cuộc khởi nghĩa từng phần lên tiếp nổ ra ở nhiều địa phương, các căn cứ địa cách mạng được thành lập. Phong trào ở Nam Kỳ cũng phát triển mạnh sau cuộc đảo chính của Nhật. Ngày 25–6–1945, XUNK họp hội nghị tại một địa điểm ở Mỹ Tho, ra nghị quyết chỉ đạo các địa phương khẩn trương chuẩn bị cho cuộc Tổng khởi nghĩa.
Chấp hành nghị quyết của XUNK, và xuất phát từ tình hình thể của tỉnh, Tỉnh ủy Bến Tre đã đề ra nhiệm vụ trước mắt là đẩy mạnh công tác tổ chức, xây dựng lực lượng vũ trang và bán vũ trang, sẵn sàng đón thời cơ, giành chính quyền.
Ngay từ tháng 4-1945, Tỉnh ủy đã chủ trương mở rộng tổ chức Việt Minh vào tầng lớp tiểu tư sản ở thị xã, lôi cuốn công chức, trí thức vào Mặt trận. Các tổ chức Cứu quốc phát triển tương đối nhanh, nhất là trong các tầng lớp công nhân, nông dân, đội quân chủ lực của cách mạng. Đến tháng 7–1945, các nghiệp đoàn có tới 900 người, nông hội thu hút được 7.000 hội viên, riêng quận Ba Tri có tới 3.000.
Tỉnh ủy cũng chú trọng công tác vận động binh lính địch, cử nhiều cán bộ có uy tín và năng lực bí mật thâm nhập vào các tổ chức thân Nhật, để vận động lôi kéo một số người đứng về phía cách mạng.
Trong các tổ chức quần chúng công khai, thì Đoàn Thanh niên tiền phong là tổ chức thu hút được đông đảo thanh niên trí thức, công chức, học sinh. Vì vậy, Tỉnh ủy quyết định nắm lấy tổ chức này để biến thanh niên thành lực lượng xung kích trong cuộc Tổng khởi nghĩa sắp tới, bằng cách đưa cán bộ cốt cán vào nắm các chức vụ thủ lãnh.
Ở nông thôn, thanh niên tích cực luyện tập võ nghệ, rèn dao găm, mã tấu. Ở các thị trấn như Ba Tri, Mỏ Cày, Sóc Sãi, Thạnh Phú, hàng trăm cuộc mít-tinh, biểu tình có hàng ngàn người tham gia, đã diễn ra.
Khoảng cuối tháng 7–1945, Tỉnh ủy triệu tập hội nghị mở rộng tại ngã tư Giồng Dầu (ngã tư Phú Khương ngày nay). Sau khi kiểm điểm công tác chuẩn bị khởi nghĩa, hội quyết định thành lập Ủy ban khởi nghĩa40 do đồng chí Nguyễn Tẩu phụ trách.
Với sự nỗ lực của Ủy ban khởi nghĩa, chỉ trong một thời gian ngắn vừa tổ chức vừa luyện tập, đến trước ngày Tổng khởi nghĩa, các đội Cứu quốc quân trong tỉnh đã có tới hàng ngàn đội viên. Như vậy, với thời gian trên 3 tháng chuẩn bị, lực lượng cách mạng trong tỉnh bao gồm lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang đã sẵn sàng, chỉ cần có thời cơ là sẽ đứng lên giành chính quyền.
Và thời cơ đó đã đến.
Ngày 12–8, phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh không điều kiện. Ở Đông Dương, quân đội Nhật hoang mang, tê liệt. Chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim giải thể. Tin phát xít Nhật đầu hàng nhanh chóng truyền đi khắp nước cùng với mệnh lệnh Tổng khởi nghĩa phát ra từ Đại hội Quốc dân Tân Trào làm nức lòng người.
Ngày 19–8, cuộc khởi nghĩa giành thắng lợi ở thủ đô Hà Nội. Ngày 23–8, cách mạng thành công ở Huế. Sự thành công nhanh chóng của các cuộc khởi nghĩa ở thủ đô Hà Nội, Huế đã cổ vũ và thôi thúc mạnh mẽ Đảng bộ và nhân dân Bến Tre đứng lên hành động. Lúc này (ngày 23-8) ở Bến Tre, đại biểu của Tỉnh ủy đi dự hội nghị do XUNK triệu tập chưa về đến, nhưng căn cứ vào diễn biến của tình hình chung, Ủy ban khởi nghĩa đã ra lệnh cho các quận huy động lực lượng quần chúng kéo về áp sát thị xã, đồng thời ra lệnh cho các đoàn thanh niên tại thị xã phải túc trực ở trụ sở, chuẩn bị sẵn sàng hành động.
Đêm 23–8, theo kế hoạch của Ủy ban khởi nghĩa, khắp nơi trong tỉnh trương biểu ngữ, phát truyền đơn kêu gọi nhân dân nổi dậy lật đổ chính quyền bù nhìn, thiết lập chính quyền cách mạng.
Ngày 24–8, Mặt trận Việt Minh tỉnh ra công khai tại câu lạc bộ thị xã. Bọn cầm đầu ngụy quyền không dám có thái độ chống đối. Trưa ngày 25–8, nhân cơ hội tên cò Lắm chỉ huy trưởng lực lượng bảo an ninh thị xã đến trụ sở Việt Minh xin phép đi xuống địa phương thu gom vũ khí của bọn cai tổng và hội tề ở Mỏ Cày, Ủy ban khởi nghĩa ra lệnh cấp tốc khởi nghĩa. Cuộc khởi nghĩa nổ ra lúc 16 giờ cùng ngày.
Với sức mạnh quật khởi, lực lượng quần chúng khởi nghĩa đã nhất tề xông lên với giáo mác, tầm vông tràn tới chiếm trại Bảo an binh, buộc chúng phải nộp vũ khí đầu hàng. Sau đó lực lượng khởi nghĩa đã nhanh chóng tiến chiếm các công sở, tòa án, bưu điện, kho bạc, nhà máy điện, bót cảnh sát... Trước khí thế của quần chúng khởi nghĩa, quân Nhật và bọn tay sai, không dám chống cự. Tỉnh trưởng bù nhìn Phan Văn Chỉ buộc phải đầu hàng và xin giao chính quyền cho cách mạng. Bộ máy ngụy quyền tay sai Nhật sụp đổ. Chính quyền về tay nhân dân lúc 17 giờ, sớm hơn thời gian dự định trong kế hoạch.
Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa ở thị xã có ảnh hưởng quyết định đến cuộc khởi nghĩa ở các huyện. Ngày 23–8, khởi nghĩa thắng lợi ở Bình Đại (lúc này còn thuộc Mỹ Tho). Ngày 25–8, khởi nghĩa thắng lợi ở Mỏ Cày. Đêm 25 rạng 26–8, khởi nghĩa tiếp tục thắng lợi ở Sóc Sãi, Thạnh Phú, Châu Thành, Ba Tri.
Cuộc khởi nghĩa giành chính quyền đã thành công nhanh chóng trong toàn tỉnh. Ngày 26–8, Ủy ban Nhân dân cách mạng tỉnh Bến Tre làm lễ ra mắt đồng bào trong một cuộc mít-tinh long trọng được tổ chức tại sân vận động thị xã.
Cách mạng tháng Tám thành công là bước nhảy vọt vĩ đại, đánh dấu một cuộc biến đổi cực kỳ to lớn, một cuộc đổi đời trong lịch sử dân tộc nói chung, lịch sử nhân dân Bến Tre nói riêng. Từ chỗ là người nô lệ, nhân dân Bến Tre cũng như nhân dân cả nước đã trở thành người làm chủ đất nước, quê hương, làm chủ vận mệnh của mình. Vì vậy CMT8–1945 thực sự là ngày hội lớn của toàn thể nhân dân trong tỉnh. Và từ đây, nhân dân Bến Tre sẽ cùng nhân dân cả nước quyết đem hết tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để gìn giữ nền độc lập vừa mới giành được.
Địa chí Bến Tre