Cuộc vượt biển mở đường lần thứ nhất từ Bến Tre ra Hà Nội năm 1946
Cuộc vượt biển mở đường lần thứ nhất từ Bến Tre ra Hà Nội năm 1946
CUỘC VƯỢT BIỂN MỞ ĐƯỜNG LẦN THỨ NHẤT
TỪ BẾN TRE RA HÀ NỘI NĂM 1946
Ngày 8-2-1946, giặc Pháp đánh chiếm Bến Tre, tỉnh cuối cùng của Nam Bộ. Mặc dù được sự chi viện của Trung ương, nhưng cuộc kháng chiến đồng bào Nam Bộ, trong đó có Bến Tre, gặp rất nhiều khó khăn. Những đơn vị bộ đội Nam tiến cùng vũ khí, đạn dược theo đường bộ vượt qua các tỉnh cực Nam Trung Bộ cũng chỉ đến được miền Đông, dừng lại ở đây và ở mặt trận Sài Gòn. Trước tình hình đó, các đồng chí lãnh đạo khu 8 đã triệu tập một cuộc họp bàn việc cử một phái đoàn của khu 8 ra báo cáo với Trung ương và xin chi viện cho cuộc kháng chiến ở Nam Bộ. Đường dây liên lạc, đi lại giữa các tỉnh lúc này chứa được củng cố nên rất khó triệu tập đầy đủ đại diện của các tỉnh trong khu, cuối cùng đành phải lập một “phái đoàn hạn chế”: tỉnh Mỹ Tho có bác sĩ Trần Hữu Nghiệp, tỉnh Bến Tre có nhà giáo Ca Văn Thỉnh và Nguyễn Thị Định.
Sau một thời gian chuẩn bị khẩn trương, vào một ngày cuối tháng 3-1946, chiếc thuyền chở đoàn xuất phát từ Cồn Lợi (xã Thạnh Phong, huyện Thạnh Phú) dong buồm chạy ra xa phía biển Đông để tránh những tàu tuần tiễu của Pháp, rồi hướng thẳng về phía tây bắc. Ngày thứ hai, khi thuyền đến hải phận Phan Thiết thì bỗng gặp phải gió chướng (thổi từ đông bắc đến tây nam), buồm lại bị hỏng, anh em trong đoàn quyết định ghé thuyền vào mũi Kê Gà để tránh gió, sau đó sẽ liệu. Vùng này giặc Pháp đã chiếm đóng, nhưng may mắn là không gặp địch.
Hai ngày sau, gió đông bắc vẫn thổi mạnh. Đoàn quyết định cho thuyền quay về Cồn Lợi, còn anh em trong đoàn thì khoác ba-lô, tìm liên lạc đi đường bộ ra khu 5. Đến rạng sáng ngày hôm sau, sau khi vượt qua đồn địch và những đồi cát, đoàn tạm nghỉ để lo cơm nước, thì bỗng nhiên trời đổi hướng gió. Không ai bảo ai, tất cả đều reo lên: Gió nồm rồi! Từ hướng tây nam, gió tiếp tục thổi mỗi lúc một mạnh dần. Sau một cuộc hội ý chớp nhoáng, anh em thấy rằng lúc này nên trở lại đi bằng đường biển tiện lợi và an toàn hơn. Thế là cả đoàn lại ba-lô trên vai, quay trở lại Kê Gà. Ở đây, qua thăm dò một số đồng bào tốt, đoàn thuê được một chiếc thuyền ra khu 5.
Đoàn rời bến Vĩnh Trường yên ổn, và trên đường đi đã hai lần chạm tàu giặc, nhưng đều may mắn vượt qua. Sau một chặng đường dài, khi đoàn đã qua khỏi vùng Pháp chiếm đóng, đồng chí đoàn trưởng cho thuyền hướng về đất liền. Thấy ngọn cờ đỏ sao vàng phấp phới từ xa trên đất Tuy Hòa (Phú Yên), anh chị em sung sướng đến chảy nước mắt.
Đoàn được chính quyền cách mạng địa phương đón tiếp một cách niềm nở, nhiệt tình. Sau khi nghỉ ngơi cho lại sức, đoàn đáp xe lửa đi Quảng Ngãi để gặp đồng chí lãnh đạo của khu 5. Thiếu tướng Nguyễn Sơn lúc bấy giờ là Tư lệnh khu 5 Câu chuyện kéo dài suốt đêm cho Ngãi đoàn đáp xe lửa đi Hà Nội. tiếp đoàn rất vui vẻ và thân mật. đến sáng. Ngày hôm sau, từ Quảng Ngãi đoàn đáp xe lử đi Hà Nội.
Đến thủ đô, đoàn được bố trí ở tại phòng Nam Bộ trực thuộc Chính phủ nằm ở phố Tông Đản – nguyên trước kia nơi đây là trụ sở của Hội Nam Kỳ tương tế. Đoàn được các đồng chí trong Chính phủ và Quốc hội đến thăm hỏi và được chăm sóc rất chu đáo. Ông Đặng Thai Mai, Bộ trưởng Giáo dục, vốn là bạn học với Ca Văn Thỉnh ở Trường Cao đẳng Sư phạm Hà Nội, nhân cuộc tái ngộ giữa hai người bạn sau 18 năm xa cách, đã tổ chức mời cơm đoàn. Một điều bất ngờ và thú vị là hôm ấy Bác Hồ đến thăm đoàn và dùng bữa cơm thân mật. Bác hỏi về tình hình nhân dân, bộ đội, về cuộc kháng chiến Nam Bộ cùng những khó khăn và thiếu thốn đang gặp phải. Chị Nguyễn Thị Định được Bác “ưu tiên” dành cho nói trước, vì là người phụ nữ duy nhất trong đoàn. Sau đó, Bác hỏi riêng từng người về gia cảnh, nguyện vọng cùng những lời căn dặn, động viên của một người cha thân yêu hơn là một vị lãnh tụ.
Sau đó, đoàn lại được đến mừng thọ Bác nhân ngày 19-5-1946. Hôm ấy, Bác trìu mến nói với anh em trong đoàn rằng: “Đồng bào miền Nam đang chịu nhiều đau khổ do giặc Pháp gây ra. Lòng Bác cũng như lòng nhân dân miền Bắc luôn hướng về miền Nam ruột thịt. Cả nước ta một lòng đánh đuổi bọn xâm lược, nhất định chúng ta sẽ thắng lợi và ngày đoàn tụ Nam Bắc sẽ không xa.”. Nói xong, Bác lấy khăn lau nước mắt. Cả đoàn hôm ấy ai cũng khóc vì xúc động.
Sau một thời gian nghỉ ngơi, hai ông Ca Văn Thỉnh và Trần Hữu Nghiệp được Trung ương quyết định ở lại nhận nhiệm vụ mới, còn chị Nguyễn Thị Định được giao nhiệm vụ trở về Nam Bộ. Vào một buổi chiều cuối tháng năm, tại một địa điểm ở miền Bắc, những người ở lại bịn rịn tiễn đưa chị Định trở lại chiến trường.
Từ bờ biển tỉnh Phú Yên, chị Ba Định đã cùng với anh em thủy thủ đưa về Bến Tre một thuyền chở đầy vũ khí do Trung ương chi viện. Chuyến đi thắng lợi này mang ý nghĩa mở đường, cắm một cột mốc lịch sử về con đường tiếp tế trên biển Bắc – Nam với bao nhiêu huyền thoại cùng tên tuổi của những người con tận trung với nước, tận hiếu với dân sẵn sàng hy sinh cho sự nghiệp giải phóng đất nước.
Địa chí Bến Tre