Bến Tre là một tỉnh châu thổ nằm sát biển thuộc Đồng bằng sông Cửu Long, có diện tích 2.315km2, phía bắc giáp tỉnh Tiền Giang, phía nam giáp tỉnh Trà Vinh, phía tây giáp tỉnh Vĩnh Long và phía đông giáp biển có chiều dài 65km. Bến Tre được hợp thành bởi ba cù lao lớn là: cù lao Minh, cù lao An Hóa và cù lao Bảo do phù sa của bốn nhánh sông Cửu Long là sông Tiền, sông Hàm Luông, sông Ba Lai và sông Cổ Chiên bồi tụ nên qua nhiều thế kỷ. Hệ thống kênh rạch nơi đây chằng chịt liên thông với nhau, nối liền các dòng sông lớn như Mỹ Tho, Ba Lai, Hàm Luông và Cổ Chiên nên không chỉ thuận lợi cho việc giao thông bằng đường thủy mà còn thuận lợi trong sản xuất nông nghiệp.
Trước đây, Bến Tre là khu vực sinh tụ của người Khmer. Cho đến những năm đầu của thế kỷ XVII, nơi đây cũng chỉ là vùng đất còn hoang hóa, cỏ cây rậm rạp, việc khai khẩn ruộng vườn của cư bản địa người Khmer tập trung chủ yếu trên các giồng đất cao ở cù lao Bảo, cù lao Minh... Đến cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII, người Việt mới đến đây cư ngụ. Họ vốn là những lưu dân từ miền Thuận Quảng, do chiến tranh, thiên tai, đói nghèo... đã rời bỏ quê hương ra đi tìm đất sống. Trên bước đường thiên di, họ chọn Bến Tre làm nơi lưu trúcủa mình. Họ khai phá những giồng đất còn hoang vu lầy lội dọc theo các con sông lớn biến nơi đây thành những khu vực quần tụ đông đảo dân cư. Jules Sien nhận xét rằng: "Trước khi Nam kỳ trở thành một bộ phận của Việt Nam, người Việt đã lập ở đó những tổ chức. Những nhóm người di cư đã xây dựng làng xóm, hay tới ở chung với người Cao Miên"(l). Sau đó, những nhóm người Hoa do nhiều nguyên nhân đã rời đại lục sang Việt Nam, họ được chúa Nguyễn cho phép vào định cư và khai phá vùng đất ở phía Nam, một phần trong số họ đã đến Bến Tre và cư trú dọc theo các giồng đất ven sông.
Là những người lìa bỏ quê hương ra đi tìm cuộc sống mới, nên những nhóm lưu dân người Việt lẫn người Hoa khi đến đây đều khẩn trương khai hoang, chặt phá cây cối, xây dựng nhà cửa, mở mang vườn tược, ruộng đồng để ổn định cuộc sống của mình. Người Việt chủ yếu tập trung vào khai vỡ đất hoang để sản xuất nông nghiệp. Còn người Hoa vốn là một dân tộc có truyền thống về buôn bán trên biển nên trong số họ có một số sống bằng nông nghiệp, số còn lại mở cửa hàng buôn bán và sản xuất các mặt hàng thủ công. Họ biết dựa vào lợi thế của các con sông mà phát triển việc buôn bán của mình. Thuyền buôn của họ rong ruổi khắp nơi, không chỉ trong khu vực Bến Tre mà lan rộng ra khắp các cảng thị khác trong nước, có khi sang tận Xiêm La, Cao Miên, Trung Quốc...
Lúc này, nhiều ngôi chợ ở Bến Tre được hình thành trên những giồng đất cao, khô ráo ven sông ở các huyện Duy Minh, Bảo Hựu, Bảo An, . .. Điều này được Nguyễn Liên Phong viết trong Nam kỳ phong tục nhơn vật diễn ca như sau: "Bến-tre thành phố trang nghiêm, Bên phan bên niết lớp lang tư bề/ Tàu đò thường bữa đi về, Ghe-đò các chợ chực kề rước đưa/ Ghe buôn lớp nhặt lớp thưa, Đậu theo bực thạch vừa vừa chen nhau” (2). Trong đó, chợ Ba Vát (còn gọi là Ba Việt) ở huyện Tân Minh là một trong những ngôi chợ sầm uất, đồng thời là cảng thị nổi tiếng của tỉnh Bến Tre thời bấy giờ. Trong thời kỳ thịnh vượng, Ba Vát được chính quyền phong kiến chọn làm lỵ sở của huyện Tân Minh. Sách Đại nam nhất thống chí của triều Nguyễn ghi nhận: “Huyện-trị Tân-minh chu-vi 64 trượng, rào tre. Nguyên trước đặt làm huyện-trị Tân-An tại địa-phận thôn Phước-hạnh xứ Ba-việt, năm Minh-Mạng thứ 4 (1823) cải làm phủ-trị Hoằng-an, năm Tự-Đức thứ 4 (1851) dẹp phủ Hoằng-an đổi làm huyện Tân-minh"(3). Địa danh Ba Vát thuộc Tân Minh, nằm trên cù lao Minh cũng được Nguyễn Liên Phong nhắc đến trong Nam kỳ phong tục nhơn vật diễn ca: "Phía Minh là phía Mỏ-cày, Trên thì Ba-vát dưới rày Băng-cung” (4).
Ngoài chức năng là một lỵ sở của huyện Tân Minh thì Ba Vát cũng là một trong những cảng thị sầm uất của tỉnh Bến Tre lúc bấy giờ. Nơi đây phố xá trù mật, dân cư đông đúc sông rạch chằng chịt nên cư dân dựa vào các dòng sông để làm đường giao chông chính, vì vậy nhà cửa của họ thường quay mặt ra sông để tiện lợi cho việc sinh hoạt cũng như buôn bán, trao đổi hàng hóa. Tại Ba Vát còn có một ngôi chợ lớn nằm ở ven sông nên thuyền buôn ra vào tấp nập. Vị thế của Ba Vát được sách Đại Nam nhất thống chí ghi : "Ngôi An-vĩnh ở phía tây huyện Tân-minh 15 dặm, bờ phía tây sông Hàm-long, rộng 12 trượng rưỡi, sâu 7 trượng. Chi Phía tây chảy 10 dặm đến đà Lan-sái rồi chảy qua nam chuyển quanh 22 dặm đến ngã ba đà Gia-khánh; lại chảy xuống nam ra cửa Cổ-chiến. Chi phía nam chảy 1 dặm đến chợ Ba-việt lại chuyển qua nam 16 dặm đến đà Thanh-trung vào sông Long-hồ rồi chuyển xuống đông 22 dặm đến Lê-đầu tiểu-giang; lại chuyển qua nam đến đà Thanh-thủy thông ra cửa Bàn-côn"(5).
Chính vị thế thuận lợi của Ba Vát như vậy nên việc thông thương giữa Ba Vát với các địa phương khác trong tỉnh hoặc vượt ra ngoài ranh giới của địa phương là điều hết sức dễ dàng. Hàng hóa từ các nơi đổ về Ba Vát và từ Ba Vát xuất đi các khu vực khác ghe thuyền đêm ngày tụ họp đông đảo ở Ba Vát Trong sách Gia Định thành thông chí, Trịnh Hoài Đức miêu tả: "Nơi đây phố xá liền lạc, ghe thuyền đậu tiếp tục đến huyện lỵ Tân An. Cách đó 15 dặm rưỡi sông Mỏ Cày cũng có phố xá trù mật” (6). Còn trong Đại Nam nhất thống chí có ghi : "Chợ Ba-việt ở thôn Phước-hạnh ngay nơi huyện trị Tân-minh. Phố xá liên-lạc, ghe thuyền tới lui tiếp tục"(7). Đến cuối thế kỷ XVIII, Ba Vát là nơi diễn ra trận chiến giữa quân Tây Sơn và quân Nguyễn Ánh, do đó khu vực này bị tàn phá nặng nề, dân chúng phiêu tán nhiều nơi, phải mất đến vài thập kỷ sau thì Ba Vát mới được khôi phục lại phần nào.
Ngày nay, Ba Vát mất đi vai trò là một cảng thị, nhưng những dấu tích và di vật còn sót lại là những minh chứng về một thuở huy hoàng của mình. Trong những năm qua, tại khu vực Ba Vát, các nhà nghiên cứu và người dân đã tìm thấy rất nhiều di vật có liên quan đến thời kỳ thịnh vượng của cảng thị Ba Vát trong lịch sử. Điển hình là cuối năm 2003, đầu năm 2004, Bảo tàng Bến Tre và Sở Văn hóa thông tin Bến Tre phối hợp cùng Viện Khảo cổ học Việt Nam tiến hành khai quật tại khu vực cảng thị Ba Vát trước đây.
Tại hố khai quật thứ nhất có diện tích 30m2 nằm tại vườn sau nhà ông Võ Văn Hòa, cách bờ đông của sông Ba Vát khoảng 61,6m. Các nhà khảo cổ đã tìm thấy rất nhiều mảnh gốm men xanh trắng, trắng đục, men nâu. Đa số hiện vật phát hiện tại hố khai quật có niên đại kéo dài từ cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XX. Trong đó có 14 hiện vật gốm được tráng men có thể nhận diện được loại hình như bát, đĩa, bình vôi... trang trí các đề tài hoa lá cách điệu, đường sóng gấp khúc, song hỉ, rồng, hoa cúc, cây chuối… có nguồn gốc Việt Nam. Bên cạnh đó, các nhà khảo cổ cũng phát hiện rất nhiều mảnh gốm và 86 chiếc chén, đĩa, bát, muỗng được tráng men xanh trắng vẽ lam và men đơn sắc, men trắng có xuất xứ từ Trung Quốc với các đồ án trang trí như: chữ Thọ, chữ Phúc tròn, song hỉ, rồng chầu mặt trăng, trúc lâm thất hiền, kỳ lân tứ quý phong cảnh sơn thủy, hình hoa cúc. Bên cạnh đó, trong hố khai quật còn thu được nhiều mảnh sành tráng men màu nâu đen, đen và da lươn hoặc không tráng men và một số loại hiện vật khác như sắt, đá mài, thủy tinh, xương, răng, tiền đồng, gáo dừa, cọc gỗ, san hô ...
Sau đó, các nhà khảo cổ mở tiếp hố khai quật thứ hai, hố này có diện tích 10m2 cách hố thứ nhất về hướng đông bắc khoảng 43,3m, cách bờ Đông sông Ba Vát 70m nằm tại vườn trước nhà ông Nguyễn Văn Thôi. Tại đây, các nhà khảo cổ đã tìm thấy nhiều đồ gốm men Việt Nam có niên đại thế kỷ XIX - XX gồm: muỗng, chén, đĩa và một số mảnh vỡ. Trong hố này cũng phát hiện khá nhiều đồ gốm men Trung Quốc có niên đại cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XX. Ngoài ra còn các hiện vật khác như đá mài, cọc gỗ, tiền đồng...
Dựa vào kết quả khai quật tại Ba Vát đoàn khảo có nhận định: “Việc phát hiện rất nhiều đồ gốm Trung Quốc chất lượng cao ở đây cho thấy cư dân thời đó đã sử dụng và buôn bán những mặt hàng có giá trị lớn... qua đó cho thấy cư dân Ba Vát trong giai đoạn cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX chủ yếu sinh sống ở phía gần sông. Bước sang cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX thì mới lan rộng ra các nơi xa sông hơn”.
Tại khu vực cảng thị Ba Vát, năm 2003, trong quá trình đào ao nuôi cá, ông Nguyễn Văn Tư ở ấp Phước Lý, xã Phước Mi Trung đã phát hiện một hũ tiền kim loại nặng 69kg. Năm 2006, cũng tại nơi đây ông Phát hiện thêm một hũ tiền khác nặng 40kg. Hai hũ tiền này có nhiều loại tiền thuộc các triều đại khác nhau, từ tiền Khai Nguyên thông bảo (nhà Đường), Càn Long thông bảo (nhà Thanh) của Trung quốc, đến các loại tiền Thiên Thánh nguyên bảo (nhà Lý), Thiệu Phong bình bảo (nhà Trần), Thánh Nguyên thông bảo (nhà Hồ), Chiêu Thống thông bảo và Thái Hòa thông bảo (nhà Lê), An Phát thông bảo (nhà Mạc), Quang Trung thông bảo và Cảnh Thịnh thông bảo (nhà Tây Sơn), Gia Long thông bảo (nhà Nguyễn)... của Việt Nam. Như vậy, tiền trong hai hũ này có niên đại từ thế kỷ IX, X đến giữa thế kỷ XIX, trong đó phần lớn là tiền thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XIX và một số lượng lớn chỉ biết “hiệu tiền” nhưng chưa xác định được niên đại như: Trị Bình thiên bảo, Trị Bình nguyên bảo; Tư Bình thánh bảo; Minh Nguyên thông bảo; Nguyên Phong thông bảo; Hồng Hóa thông bảo; Tương Phù thông bảo; Chí Nguyên thông bảo... Năm 2007, trong lúc đào móng nhà tại khu chợ nằm kề với bờ nam sông Ba Vát, cách khu vực khai quật năm 2004 khoảng 300m về phía tây, người dân đã tình cờ phát hiện một thùng gỗ đã bị mục nát nằm sâu dưới lòng đất hơn 1m, bên trong có đựng nhiều đồ gốm, theo các nhà khoa học thì đây là đồ gốm dân gian Trung Quốc được bán sang thị trường Đàng Trong. Những đồ gốm này trùng hợp với những mảnh gốm đã được phát hiện trong các hố thám sát và khai quật tại địa điểm Ba Vát trước đây. Ngoài những đồ gốm dưới đáy có đề niên hiệu triều đại, ở đây còn tìm được khá nhiều mảnh gốm ghi tên lò sản xuất còn đọc được như: Vĩnh Lợi, Ngoạn Ngọc, Hợp Ngọc, Hợp Thuận. Khá nhiều mảnh gốm bị vỡ chỉ còn đọc được một chữ như nội (Phủ?), Kim, Thuận, Thiên, Sang, Cận, Cổ, Triều, Xuân, Đức.
Qua những tư liệu lịch sử và những di vật được tìm thấy tại Ba Vát đặc biệt là những đồng tiền cổ có ghi "hiệu tiền" thuộc nhiều thời đại khác nhau, những hiện vật gốm với nhiều loại hình, dòng men và đồ án trang trí... xuất xứ từ Việt Nam và Trung Quốc đã chứng minh rằng, Ba Vát từng là một cảng thị phồn thịnh, là nơi tập trung buôn bán đồ gốm của các lò gốm Việt Nam và Trung Quốc trong các thế kỷ XVII đến XIX.
Chú thích:
(l) Dẫn theo Ngọc Dương, Cuộc Nam tiến của dân tộc Việt Nam, Sài Gòn, 1960, tr.45.
(2) Nguyễn Liên Phong, Nam kì phong tục nhơn vật diễn ca, Nhà in Phát Toán, Sài Gòn, 1909, tr.15.
(3) Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí – Lục tỉnh Nam Việt, tập Hạ (Tu Trai Nguyễn Tạo dịch), Nha văn hóa, Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản, Tập 3, 1959, tr.9.
(4) Nguyễn Liên Phong, Nam kì phong tục nhơn vật diễn ca, tr.15.
(5) Quốc Sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí, tr.17.
(6) Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, Nxb Giáo dục, 1998.
(7) Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí, tr.23.
Tạp chí Xưa & Nay số 355 tháng 5 năm 2010