II. CÁC PHONG TRÀO YÊU NƯỚC CỦA NHÂN DÂN BẾN TRE TRONG NHỮNG THẬP KỶ ĐẦU THẾ KỶ XX
Sau khi cuộc đấu tranh chống Pháp xâm lược qui mô lớn cuối cùng ở vùng Lục tỉnh – cuộc khởi nghĩa Long Trì do Nguyễn Hữu Huân và Võ Duy Dương lãnh đạo bị thất bại, và tiếp theo đó thực dân Pháp gấp rút thiết lập bộ máy cai trị kiềm kẹp với sự tiếp tay của tầng lớp địa chủ “tân trào”, phong trào khởi nghĩa chống Pháp xâm lược và chống phong kiến phản bội, đầu hàng của nhân dân Nam Kỳ nói chung, Bến Tre nói riêng, có tạm thời lắng xuống(30). Nhưng chẳng bao lâu sau đó, vào những năm đầu thế kỷ XX, nhân dân Nam Kỳ lại tiếp tục đứng lên cùng đồng bào cả nước, tiến hành cuộc đấu tranh nhằm đánh đổ sự thống trị của thực dân Pháp, giải phóng dân tộc.
Trong phong trào đấu tranh yêu nước chống Pháp của nhân dân Nam Kỳ nói chung, nhân dân Bến Tre nói riêng, trong những thập kỷ đầu thế kỷ XX, nổi bật nhất là hoạt động của tổ chức hội kín Thiên Địa hội.
Thiên Địa hội vốn là một tổ chức vừa mang tính chất tương tế, vừa mang tính chất chính trị của nông dân Trung Quốc, được hình thành từ sau khi nhà Minh bị nhà Thanh lật đổ. Hội có tổ chức chặt chẽ, kỷ luật nghiêm minh, khẩu hiệu chính trị là: “phản Thanh phục Minh”. Khi du nhập vào Nam Kỳ, hội này hoạt động mạnh trong giới người Hoa, nhất là trong số mới di cư đến làm ăn vào những năm cuối thế kỷ XIX (còn có tên gọi khác là hội Tam hợp). Sang đầu thế kỷ XX, Thiên Địa hội Nam Kỳ của Hoa kiều đã tích cực đóng góp tiền bạc cho phong trào cách mạng do giai cấp tư sản Trung Quốc lãnh đạo.
Người Nam Kỳ, nhất là những nông dân lưu tán và dân nghèo thành thị, xin vào hội rất đông để được nhẹ bớt phần nào cuộc sống cơ cực dưới chính quyền thực dân Pháp, và để tìm ở đó nguồn động viên cho tình cảm yêu nước không có điều kiện bộc lộ. Người Việt vào hội đã thành lập một chi nhánh riêng. Thiên Địa hội của người Nam Kỳ vẫn giữ tục lệ cũ, nhưng thay đổi khẩu hiệu “phản Thanh phục Minh” thành “phản Pháp phục Nam”.
Vào đầu thế kỷ XX, hội kín ở Nam Kỳ càng phát triển mạnh và đặc biệt mạnh vào những năm xảy ra cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Lý do là vì, dưới chính sách bóc lột của thực dân Pháp từ đầu thế kỷ XX và chính sách động viên nhân tài vật lực của chúng trong những năm chiến tranh, người nông dân Nam Kỳ phải nếm trải một sự cùng khổ tột bực. Trong khi đó, cuộc vận động cách mạng của các sĩ phu yêu nước đây lại tương đối yếu, không đủ sức tập hợp nông dân để đấu tranh trực diện với kẻ thù. Trong tình hình ấy, người nông dân Nam Kỳ phải tìm cho mình một lối thoát. Và họ đã tìm thấy ở các hội kín do Hoa kiều du nhập một hình thức hoạt động phù hợp với hoàn cảnh của họ, và chừng mực nào đó có thể giải quyết được tình cảm yêu nước thiết tha, niềm căm hờn sâu sắc kẻ cướp nước. Hình thức hoạt động thần bí của các hội kín lại rất phù hợp với đức tính can trường và mạo hiểm, thích thuật số của người Nam Kỳ lúc ấy. Vốn giàu lòng yêu nước và có tinh thần bất khuất cao, những nông dân Nam Kỳ nhanh chóng biến hội kín thành hình thức hoạt động phổ biến để đấu tranh với địch.
Thành phần tham gia hội kín, ngoài nông dân là lực lượng đông đảo nhất, còn có những người vô nghề nghiệp tức là nông dân bị bần cùng hóa phải bỏ nông thôn đi lưu tán. Ngoài ra là dân nghèo thành thị như tiểu thương, những người làm nghề tự do (cắt tóc, chữa xe đạp, khuân vác, chạy hàng v.v...), những công nhân thất nghiệp. Một thành phần khác tuy ít hơn nhưng có vai trò quan trọng, đó là những người làm nghề phương thuật như thầy phù thủy, thầy ngải, thầy tăng, thầy tướng số, thầy bói.
Động cơ tham gia hội kín của họ xuất phát từ tình cảm yêu nước, từ lòng căm thù kẻ thống trị, và từ ý thức tự vệ đối với các thế lực áp chế của xã hội, mà chủ yếu là thực dân và phong kiến tay sai để được sống dễ thở hơn. Vì vậy, tư tưởng chủ đạo trong các hội kín không thể là gì khác hơn là tư tưởng yêu nước và ý thức đùm bọc giữa những người cùng cảnh ngộ.
Tuy nhiên, tư tưởng yêu nước và tình hữu ái giai cấp ấy đã chịu ảnh hưởng rất đậm của hệ tư tưởng và đạo đức phong kiến pha màu thần bí. Trong tất cả các lời thề đều nhắc tới vua, đều nhấn mạnh lòng trung thành với vua. Họ mơ ước được sống dưới triều đại phong kiến thịnh trị như thời Nghiêu Thuấn. “Ông vua” mà họ tôn sùng lúc đầu là Phan Xích Long, về sau là Cường Để. Phan Xích Long theo quan niệm của họ, là “ông vua” được thần, Phật chỉ định và phù trợ, lại có pháp thuật cao cường.
Ngoài ra, tư tưởng và tình cảm của hội viên hội kín còn bị pha trộn thêm nhiều nhân tố hỗn tạp khác, như đạo đức Khổng Mạnh, thuyết báo ứng của nhà Phật và nhiều điều dị đoan khác.
So với nhiều nơi khác, Bến Tre là một trong những nơi hội kín phát triển mạnh. Tại đây, tháng 2–1916, xuất hiện hội kín của Lê Văn Khanh tức Tư Khanh. Ở Giồng Trôm, năm 1916, phong trào hội kín Thiên Địa hội phát triển ở các xã Châu Hòa, Bình Chánh, Phước Long, Tân Thanh, Tân Hào. Ở Thạnh Phú, tổ chức hội kín Thiên Địa hội cũng thu hút được nhiều người tham gia.
Hoạt động nổi nhất của hội kín Thiên Địa hội ở Bến Tre là cuộc tấn công vào làng Tân Phú Tây, tổng Minh Thiện, quận Mỏ Cày năm 1916. Trước ngày Tết Nguyên đán, một toán lối 50 người dưới sự chỉ huy của một người tên là Nguyễn Văn Đáng – tên thường gọi là Tám Đáng – và một phù thủy tên là thầy Chín Sửu, đã xông vào nhà cựu hương cả Trần Trung Bình làng này, để buộc Bình giao cho cây súng mà y đang giữ. Trần Trung Bình trốn thoát, họ bắt đứa con trai của y làm con tin, sau đó tiến vào chợ Ba Vát, đập phá hai tiệm buôn, rồi bao vây nhà của cựu chánh tổng Minh Thiện và phó tổng Lê Phước Toản. Trong khi đó, một toán khác lối 100 người đánh chiếm nhà việc làng Tân Phú Tây. Lúc bắt đầu cuộc tấn công, họ nổi trống báo cho nhân dân biết là họ đi đánh người Pháp, để mọi người khỏi khiếp sợ. Tên chủ quận đưa lính sen đầm đến đàn áp, Nguyễn Văn Đáng bị bắt.
Trong thời gian này, tại Mỏ Cày cũng nổ ra một cuộc biểu tình của khoảng 200 hội viên “Nghĩa Hòa đoàn” một biến tướng của hội kín Thiên Địa hội – được vũ trang bằng giáo mác, gậy gộc, mang cờ, trống diễu hành và trừng trị bọn nhà giàu gian ác.
Hoạt động của các hội kín Thiên Địa hội biểu hiện tập trung của sự bất mãn của nông dân Nam Kỳ trong đó có nông dân Bến Tre – đã khiến cho bọn thực dân Pháp hết sức lo lắng. Tại các tỉnh Nam Kỳ, ngoài số tuần canh địa phương, vào năm 1923, chính quyền thuộc địa phải thành lập đến 29 đội cảnh sát lưu động, mỗi đội gồm một thanh tra Pháp và nhiều tay chân người Việt. Những đội cảnh sát lưu động này lùng sục khắp nơi trong hầu hết các tỉnh. Tuy thế, chính quyền thực dân vẫn không thiết lập được sự ổn định như chúng mong muốn.
Song song với hoạt động của hội kín Thiên Địa hội, một phong trào yêu nước khác cũng phát triển khá mạnh ở Bến Tre, cũng như ở các nơi khác của Nam Kỳ, là quyên góp vật chất (chủ yếu là tiền bạc) ủng hộ cho phong trào Đông du do Phan Bội Châu chủ xướng. Phong trào này thu hút khá đông một bộ phận thanh niên nho học và nhân sĩ, quan lại yêu nước và tiến bộ. Ở Bến Tre, hoạt động mạnh mẽ nhất trong phong trào này là Hội đồng Nguyễn Thế Hiển (ở Sóc Sãi), Nguyễn Quyền, Nguyễn Thiện Kế, Lê Hoán... trong số này nổi nhất là Nguyễn Quyền. Về sau, những năm 1925 1926 còn có Trần Nguyên Phụ, một nhân vật của phong trào Đông du, bị Pháp bắt và “an trí” ở Nam Vang. Ở Bến Tre, ông làm nhiều nghề như buôn bán, chụp ảnh dạo. Chính Trần Nguyên Phụ là người liên lạc với VNTNCMĐCH, chọn người ở Bến Tre đưa đi dự lớp học ở Quảng Châu. Bản thân ông cũng là một trong những hội viên VNTNCMĐCH đầu tiên được tổ chức ở thị xã Bến Tre. Trần Nguyên Phụ còn đi gây dựng cơ sở của VNTNCMĐCH ở Cần Thơ và Sóc Trăng cho đến khi thành lập ĐCS.
Ngoài các phong trào lớn kể trên, thời kỳ này ở Bến Tre còn có những nhân sĩ trí thức, quan lại yêu nước và tiến bộ tham gia phong trào yêu nước chống Pháp bằng việc sáng tác, hoặc giảng dạy thơ văn kích động lòng yêu nước căm thù giặc trong nhân dân. Đáng chú ý là những hoạt động của Nguyễn Đình Chiêm, Nguyễn Văn Vinh, Sương Nguyệt Anh, Nguyễn Dư Hoài, Hà Đăng Đàng v.V...
Cùng với các phong trào chống Pháp của nông dân và các nhân sĩ trí thức yêu nước và tiến bộ kể trên, ở Bến Tre còn có nhiều cuộc đấu tranh của các tầng lớp xã hội khác nữa.
Sau cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất, năm 1919, ở Bến Tre cũng như ở Sài Gòn, Hà Nội, Hải Phòng và một số tỉnh lỵ khác, đã nổ ra phong trào “tẩy chay hàng hóa của khách trứ”. Về thực chất, cuộc tẩy chay này phản ánh sự xung đột quyền lợi giữa giai cấp tư sản Việt Nam mới nổi lên với các thế lực tư bản nước ngoài cạnh tranh với họ. Song mũi nhọn của cuộc đấu tranh này mới chỉ chĩa vào tư bản Hoa kiều, mà chưa dám chĩa vào tư bản thực dân Pháp. Trong khi đó, chính quyền thực dân lợi dụng cuộc đấu tranh này vào mục đích đánh lạc hướng nhân dân Việt Nam, nhất là đám thanh niên thành thị, hướng sự chú ý của họ không phải vào chính sách khai thác thuộc địa qui mô lớn và sự bóc lột, vơ vét tàn bạo của thực dân Pháp, mà vào các hoạt động của thương nhân người Hoa, đồng thời gây áp lực buộc bọn này phải nộp thêm hàng triệu đồng bạc thuế cho chúng.
Sau cuộc “tẩy chay khách trứ”, năm 1923 tư sản và điền chủ lớn ở Nam Kỳ lại phát động cuộc đấu tranh chống việc một công ty tư bản Pháp, được nhà cầm quyền thuộc địa ủng hộ, định giành lấy độc quyền xuất nhập khẩu ở cảng Sài Gòn. Đông đảo thanh niên trí thức tư sản và tiểu tư sản ở Sài Gòn, Bến Tre và một số tỉnh Nam Kỳ đã tham gia vào cuộc đấu tranh này. Được sự ủng hộ của quần chúng, cuộc đấu tranh đã có tiếng vang tới chính giới bên Pháp. Kết quả là chính quyền thuộc địa buộc phải tạm gác lại, chưa thi hành nghị quyết của Hội đồng thuộc địa Nam Kỳ về vấn đề trên.
Đến cuối năm 1925, cùng với nhân dân cả nước, nhân dân Bến Tre lại hưởng ứng mạnh mẽ cuộc đấu tranh đòi thả nhà yêu nước Phan Bội Châu đang bị thực dân Pháp giam giữ tại nhà lao Hỏa Lò, Hà Nội.
Trước sự phản ứng mạnh mẽ của nhân dân, thực dân Pháp buộc phải xóa án cho Phan Bội Châu (trước đó đã bị kết án khổ sai chung thân). Cuộc đấu tranh này đã làm thất bại âm mưu nhà cầm quyền Pháp định lợi dụng bản án Phan Bội Châu để uy hiếp tinh thần yêu nước của nhân dân ta.
Vào năm 1926, nhân dân Bến Tre tiếp tục cuộc đấu tranh yêu nước của mình bằng hành động tích cực tham gia vào việc tổ chức lễ tang và lễ truy điệu Phan Châu Trinh một chí sĩ yêu nước nổi tiếng trong phong trào Duy tân. Đám tang được tổ chức tại Sài Gòn. Mười bốn vạn người của Sài Gòn, Gia Định, Chợ Lớn, Tân An, Biên Hòa, Mỹ Tho, Bến Tre... gồm đủ mọi tầng lớp học sinh, trí thức, nhà kinh doanh, công nhân, người lao động nghèo đưa Phan Châu Trinh về nơi an nghỉ cuối cùng. Sau đám tang, tại tỉnh lỵ Bến Tre cũng như ở khắp Trung, Nam, Bắc, nhân dân tiếp tục tổ chức lễ truy điệu nhà chí sĩ yêu nước.
Đám tang và lễ truy điệu Phan Châu Trinh thực sự là một cuộc đấu tranh chính trị chống thực dân Pháp, một cuộc biểu dương tinh thần yêu nước, ý chí độc lập, tự do của nhân dân cả nước nói chung, nhân dân Bến Tre nói riêng.
Vào những năm 1927–1928, nhân dân Bến Tre, trước hết là nông dân nô nức hưởng ứng cuộc vận động chống Pháp của Nguyễn An Ninh. Từ đó xuất hiện cái gọi là phong trào Hội kín Nguyễn An Ninh – hay theo danh từ thường gọi là “Thanh niên cao vọng hội” – phát triển khá mạnh. Thực ra Hội kín Nguyễn An Ninh chính là biến tướng của tổ chức hội kín Thiên Địa hội đã có từ trước. Đây là kết quả của sự gặp nhau giữa một bên là tổ chức quần chúng không có lãnh tụ – tổ chức Thiên Địa hội, và một bên là lãnh tụ không có tổ chức quần chúng – Nguyễn An Ninh. Cũng như nhiều nơi khác ở Nam Kỳ, hoạt động của các cơ sở Hội kín Nguyễn An Ninh ở Bến Tre đã gây cho thực dân Pháp nhiều lo ngại. Nhưng Hội kín Nguyễn An Ninh chưa có tôn chỉ mục đích rõ ràng, tổ chức lại không chặt chẽ, nên năm 1929, khi ông bị bắt lần thứ hai tại Bến Lức và bị kết án 3 năm tù ở, thì phong trào cũng tan vỡ nhanh chóng.
Tất cả các phong trào đấu tranh nói trên của nhân dân Bến Tre cùng với phong trào đấu tranh của nhân dân cả nước là những đòn đả kích mạnh mẽ vào chế độ thuộc địa của thực dân Pháp. Tuy nhiên, các phong trào quần chúng thời kỳ này vẫn chưa được hướng dẫn bởi một đường lối cứu nước đúng đắn, chưa được đặt dưới sự lãnh đạo của một giai cấp tiên tiến, vì vậy hiệu quả của các cuộc đấu tranh mang lại còn thấp, có nhiều hạn chế, chưa đạt được những mục tiêu đề ra là độc lập dân tộc và cải thiện dân sinh.
Nhưng cũng từ những năm 1925–1926 trở đi, ở Bến Tre cũng như ở Sài Gòn và các tỉnh khác ở Nam Kỳ đã bắt đầu nhen nhóm một phong trào yêu nước mang màu sắc mới được sự soi rọi bởi một đường lối cứu nước đúng đắn - con đường cách mạngvô sản do Nguyễn Ái Quốc, người con ưu tú nhất của dân tộc mang lại. Phong trào yêu nước mới ấy được thực hiện thông qua hoạt động của một tổ chức lấy tên là VNTNCMĐCH do chính Nguyễn Ái Quốc sáng lập vào tháng 6–1925 tại Quảng Châu (Trung Quốc).
VNTNCMĐCH là đoàn thể cách mạng mới có xu hướng mácxít, một tổ chức tiền thân của ĐCS trong tương lai. Mục đích của Hội là “làm cuộc cách mạng dân tộc (đập tan bọn Pháp và giành lại độc lập cho xứ sở) rồi sau đó làm cách mạng thế giới (lật đổ chủ nghĩa đế quốc và thực hiện chủ nghĩa cộng sản)”
Từ năm 1926, VNTNCMĐCH bắt đầu có cơ sở trong nước. Kỳ bộ Nam Kỳ của VNTNCMĐCH được thành lập vào năm 1927 với những cán bộ lãnh đạo như Tôn Đức Thắng, Nguyễn Văn Phát. Đến đầu năm 1929, Kỳ bộ Nam Kỳ đã tổ chức được ba thành bộ và tỉnh bộ ở Sài Gòn, Chợ Lớn, Mỹ Tho với 10 chi bộ và 12 hội quần chúng công, nông, binh, phụ ở nhiều nơi.
Ở Bến Tre, tổ chức của Hội được hình thành và hoạt động vào khoảng cuối năm 1926 đầu năm 1927. Vào khoảng thời gian này, Tỉnh bộ VNTNCMĐCH được thành lập do đồng chí Hoài Nghĩa làm Bí thư, trụ sở đặt tại hiệu ảnh Tướng Quán đường Clémenceau tại thị xã Bến Tre.
Tháng 9–1927, đồng chí Hoài Nghĩa đến Ba Tri tổ chức ra nhiều chi bộ VNTNCMĐCH ở Tân Xuân, An Đức, An Hiệp, Mỹ Nhơn, Phú Lễ, An Bình Tây. Cũng trong thời gian này, chi bộ thị xã được tổ chức do đồng chí Phạm Văn Minh (tức Thả) làm Bí thư. Sau đó tổ chức của Hội phát triển nhanh chóng sang Mỏ Cày và Bình Đại. Ở Mỏ Cày, các chi bộ Phước Hiệp, Bình Khánh, An Thạnh, Tân Thành Bình. Ở Bình Đại, có các chi bộ Thới Thuận, Lộc Thuận. Các chi bộ hoạt động dưới sự chỉ đạo thống nhất của Tỉnh bộ VNTNCMĐCH với nội dung chủ yếu trước mắt là tuyên truyền giác ngộ cách mạng cho quần chúng để phát triển thêm hội viên mới.
Từ năm 1926, theo chỉ thị của Kỳ bộ Nam Kỳ, Tỉnh bộ VNTNCMĐCH Bến Tre đã cử những thanh niên ưu tú sang Quảng Châu dự lớp bồi dưỡng cán bộ cách mạng, do Nguyễn Ái Quốc mở và trực tiếp huấn luyện. Trong số này có Nguyễn Văn Phát, sau khi học xong được kết nạp vào Cộng sản đoàn, về nước tham gia vào Ban chấp hành Kỳ bộ Nam Kỳ.
Hoạt động của các chi bộ VNTNCMĐCH từ năm 1926 đã tạo tiền đề về tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của Đảng bộ Cộng sản Bến Tre vào đầu năm 1930.
Địa chí Bến Tre