III. PHONG TRÀO KHÁNG CHIẾN Ở BẾN TRE TRONG NHỮNG NĂM 1947 – 1952.
Trước thái độ nhân nhượng của Chính phủ VNDCCH muốn tranh thủ giải quyết vấn đề Việt Nam bằng con đường thương lượng, thực dân Pháp càng lấn tới. Chúng ngang nhiên đánh chiếm Lạng Sơn, Hải Phòng và chuẩn bị kế hoạch đánh úp Chính phủ ta ở Hà Nội. Như vậy là giặc Pháp đã hoàn toàn xé bỏ hiệp định Sơ bộ 6–3–1946 cùng Tạm ước 14-9-1946), và trên thực tế đã phát động cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ hai.
Trước tình hình đó, trong hai ngày 18 và 19–12–1946, Ban Thường vụ TƯĐCS họp mở rộng ở Vạn Phúc (Hà Đông) dưới sự chủ tọa của Hồ Chủ tịch, chủ trương phát động cuộc kháng chiến trong cả nước. Đêm 19-12-1946, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Ngày 20–12–1946, Hồ Chủ tịch ra lời kêu gọi:
“Hỡi đồng bào toàn quốc!
Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta muốn nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa.
“Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ!
“Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc, hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp, cứu Tổ quốc”.
Ngày 22-12-1946, Trung ương Đảng ra chỉ thị Toàn dân kháng chiến. Chỉ thị đó vạch rõ mục đích cuộc kháng chiến là giành độc lập và thống nhất Tổ quốc, phương châm cơ bản của cuộc kháng chiến là toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh. Khẩu hiệu được nêu lên là “mỗi phố là một mặt trận, mỗi làng là một pháo đài”, “vừa kháng chiến, vừa kiến quốc”. Cuộc kháng chiến sẽ trải qua 3 giai đoạn: phòng ngự, cầm cự và phản công.
Đáp lại “Lời kêu gọi cứu nước” của Hồ Chủ tịch ngày 20–12– 1946 và chỉ thị “Toàn dân kháng chiến” của Thường vụ TƯĐCS, nhân dân cả nước từ Nam chí Bắc đã đứng dậy chống giặc. Nhân dân Bến Tre, trong thế trận bày sẵn, càng có thêm nghị lực và niềm tin để đẩy mạnh cuộc kháng chiến phối hợp với toàn quốc.
Ngày 23–1–1947 hai tiểu đoàn bộ binh của Pháp có xe bọc thép yểm trợ càn vào xã Thạnh Phú Đông và Tân Hào Đông. Chi đội 19 đã chặn đánh, diệt gần hết một tiểu đoàn địch, thu 150 súng, có 1 trọng liên 12,7mm, 1 súng chống tăng và phá hủy 1 xe bọc thép. Ngày 18–2–1947, một phân đội của chi đội 19 đã diệt đồn Vàm Nước Trong, xã Định Thủy (huyện Mỏ Cày), giết chết 31 tên địch, bắt sống 3 tên. Ngày 19–5–1947, hai trung đội của chi đội 19 phục kích ở Phú Lễ để đánh quân Pháp càn vào xã Tân Xuân (huyện Ba Tri) diệt 6 xe quân sự, 132 tên địch thu gần 100 súng.
Tháng 7–1947, Tỉnh ủy Bến Tre họp hội nghị tại xã Phước Long (huyện Tán Kế), có đồng chí Nguyễn Thị Thập, đại diện XUNB đến dự, để bàn việc quán triệt chủ trương của Trung ương. Hội nghị đặc biệt nhấn mạnh việc xây dựng Đảng bộ vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, đồng thời xác định Bến Tre là nơi đông dân nhiều của, có bổn phận cung cấp nhân tài, vật lực cho kháng chiến. Hội nghị bầu đồng chí Võ Văn Khánh làm Bí thư Tỉnh ủy.
Sau hội nghị Tỉnh ủy, LLVT gồm ba thứ quân được gấp rút xây dựng và củng cố. Về bộ đội chủ lực, chi đội 19 được bổ sung thêm quân số, vũ khí, và được chuyển thành trung đoàn chủ lực của tỉnh với phiên hiệu là trung đoàn 99, do Đồng Văn Cống làm Trung đoàn trưởng, Võ Văn Thời làm Chính trị viên.
Về bộ đội địa phương huyện, mỗi huyện có hai trung đội tập trung. Còn lực lượng dân quân thì được tổ chức đều khắp ở các xã.
Thực hiện chủ trương đánh giao thông chiến, quân dân Bến Tre liên tiếp phục kích trên các đường giao thông thủy bộ, đánh chìm, bắn cháy nhiều ghe, tàu địch trên sông. Các đội vũ trang công tác còn đột nhập vào thị xã, thị trấn, diệt tề, trừ gian, phá hủy kho tàng, làm cho địch luôn luôn phải đối phó vất vả.
Sau cuộc tấn công lên Việt Bắc (mùa đông năm 1947) bị thất bại thảm hại, giặc Pháp phải chuyển từ chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh” sang chiến lược “đánh lâu dài”. Những rối ren về kinh tế và chính trị ở ngay chính quốc không cho phép bọn thực dân Pháp tiến hành cuộc chiến tranh dài ngày hao người tốn của. Chúng buộc phải thực hiện chính sách “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”, “dùng người Việt đánh người Việt”. Chúng rút bớt quân ở chiến trường Bắc Bộ, quay về bình định vùng chiếm đóng ở Nam Bộ, nhằm biến nơi đây thành nguồn dự trữ lực lượng chủ yếu cho chiến tranh.
Thực hiện kế hoạch De Latour, quân Pháp tiến hành xây dựng một hệ thống đồn bót dày đặc như mạng nhện để kìm kẹp dân chúng. Lấn chiếm đến đâu, chúng xây dựng đồn bót, tháp canh đến đấy. Mặt khác, chúng ra sức củng cố ngụy quyền, phát triển ngụy quân, thi hành chính sách đốt sạch, cướp sạch, giết sạch. Điển hình cho chính sách này ở Bến Tre là hoạt động của tên Léon Leroy cùng đội quân UMDC, mà đồng bào thường gọi là đội quân “uống máu dân chúng”. Điển hình là các vụ thảm sát hàng trăm dân chúng cùng một lúc ở Cầu Hòa, Bình Hòa, Tân Hào Đông, Cồn Thùng, Phước Thạnh. Hàng ngàn người dân vô tội đã bị đội quân UMDC giết hại. Chính cái thành tích đẫm máu man rợ đó đã đưa hắn từ một tên thiếu úy quèn (1947) lên địa vị một tên đại tá kiêm tỉnh trưởng Bến Tre (1950).
Căm thù địch đánh phá ác liệt, đồng thời được chiến thắng của quân và dân Việt Bắc cổ vũ, quân và dân Bến Tre đã kiên cường chống trả lại âm mưu của địch. Ngay từ đầu năm 1948, LLVT của tỉnh đã tấn công quyết liệt vào đội quân cơ động của địch đi ruồng bố ở cù lao Bảo, và chủ động mở 2 trận đánh thọc sâu vào hậu phương địch ở Bình Đại, uy hiếp hệ thống đồn bót của chúng, đồng thời đánh thiệt hại nặng bọn đi giải tỏa. Phối hợp với bộ đội chủ lực, lực lượng dân quân du kích đã bao vây đồn, bắn tỉa địch và bắn phá thường xuyên các tuyến đường giao thông của chúng.
Ngoài ra, để bồi dưỡng sức dân, nhằm đảm bảo các nhu cầu thiết yếu cho cuộc chiến đấu, chính quyền kháng chiến căn cứ vào tinh thần chỉ thị của Trung ương đã tiến hành tịch thu đất dai của bọn Việt gian và những địa chủ vắng mặt, cấp 5.000ha đất vườn và ruộng cho hơn 2.000 hộ nông dân không có ruộng hoặc thiếu ruộng. Chủ trương này đã mang lại niềm phấn khởi to lớn đối với nông dân, họ càng hăng hái phát triển sản xuất, đóng góp cho kháng chiến.
Tháng 3–1948, UBKCHC tỉnh phát động phong trào thi đua yêu nước trong toàn tỉnh, được mọi người, mọi giới hưởng ứng sôi nổi. Bên cạnh phong trào thi đua chống giặc ngoại xâm, việc chống giặc đói và giặc dốt cũng được hết sức coi trọng.
Trên tinh thần tự lực cánh sinh và phương châm kháng chiến trường kỳ, bà con nông dân đã hăng hái tăng gia sản xuất, không chỉ để nuôi mình và gia đình mà còn để đóng góp cho kháng chiến, giúp bộ đội ăn no và đánh thắng. Hàng vạn nông dân, thanh niên, phụ nữ tham gia vào công tác đào kênh, vừa làm thủy lợi, vừa làm giao thông “nội địa”, tránh đi ngoài sông lớn vì dễ chạm phải tàu tuần tiễu thường xuyên của địch. Đó là kênh An Thới An Định An Thạnh, kênh Thành Thới Khánh Thạnh Tân, kênh Tân Thạnh Tây – Hưng Khánh Trung.. Đặc biệt con kênh mang tên “Phụ Nữ” (bởi vì lực lượng chính tham gia đào kênh này là chị em phụ nữ địa phương), dài 10km nối từ xã Quới Điền (Thạnh Phú) đến xã Hương Mỹ (Mỏ Cày). Cho đến nay, kênh Phụ Nữ vẫn còn phát huy tác dụng trong giao thông vận tải cũng như dẫn nước ngọt phục vụ sản xuất nông nghiệp.
Những hoạt động văn hóa, xã hội cũng phát triển khá mạnh mẽ, sôi động, mà các thời kỳ trước đó chưa bao giờ tạo được một không khí như thế. Với khẩu hiệu “Người biết chữ dạy người chưa biết chữ”, những lớp bình dân học vụ được mở ra đều khắp ở các thôn xóm vùng tự do. Ngành giáo dục phổ thông và bổ túc văn hóa phát triển khá. Trường bổ túc văn hóa do tỉnh mở tại xã An Thạnh đã góp phần đào tạo nhiều cán bộ xuất thân từ công nông cho phong trào.
Trường y tá của tỉnh không chỉ đào tạo cán bộ ngành y cho tỉnh, mà còn là nơi đào tạo cán bộ y tế cho các tỉnh Trung Nam Bộ. Không ít những anh chị em hiện nay đang giữ chức giám đốc sở y tế một số tỉnh, giám đốc các xí nghiệp dược phẩm, bác sĩ chuyên khoa ở các bệnh viện Trung ương và ở TP. Hồ Chí Minh đã xuất thân từ trường đào tạo này. Ngành y tế tỉnh xây dựng nhiều trạm xá, nhà hộ sinh, vận động nhân dân ăn sạch, ở sạch, phát triển phong trào dùng thuốc nam, Đông Tây y để kết hợp chữa bệnh.
Công tác thông tin, văn hóa cũng được phát triển mạnh. Nhận rõ vai trò công tác này, đầu năm 1948, Tỉnh ủy Bến Tre quyết định thành lập Đoàn Văn hóa Kháng chiến. Đoàn có nhiệm vụ tập hợp lực lượng, tổ chức phong trào sáng tác phục vụ kháng chiến, vận động đời sống mới, bài trừ hủ tục, mê tín dị đoan. Tập san Văn hóa phổ thông cùng với các tờ báo khác của tỉnh như Hy sinh, Đoàn kết, Thông tin Bến Tre đã góp phần tuyên truyền giáo dục lòng yêu nước, cổ vũ, động viên cán bộ và nhân dân đóng góp sức người sức của để chiến thắng bọn xâm lược.
Cuộc hội nghị Tỉnh ủy mở rộng cuối năm 1949, gồm đại biểu các đảng bộ địa phương và các ngành quân, dân, chính, đảng, kiểm điểm quá trình tổ chức và lãnh đạo kháng chiến trong 4 năm và đề ra những chủ trương, biện pháp thiết thực nhằm đẩy mạnh phong trào kháng chiến một cách toàn diện, chặn đứng âm mưu bình định, lấn chiếm của địch, xây dựng vùng tự do vững mạnh. Hội nghị cũng đã bầu lại Tỉnh ủy do đồng chí Trần Xuân Lê làm Bí thư.
Để tăng cường năng lực tác chiến, Tỉnh ủy quyết định tách tiểu đoàn mang phiên hiệu 310 ra khỏi trung đoàn 99, xây dựng thành đơn vị cơ động đầu tiên của tỉnh. Ngay sau ngày thành lập, tiểu đoàn 310 đã cùng với chủ lực của quân khu 8 tham gia chiến dịch Trà Vinh, rồi chiến dịch Bến Tre, giải phóng xã Tân Bình.
Chủ trương tinh giảm biên chế, đưa những cán bộ già yếu, bệnh tật, không còn khả năng hoạt động đi về miền Tây (khu 9) được thực hiện. Các cơ quan quân dân chính của tỉnh chuyển về bám rừng Thạnh Phú.
Tháng 9–1950, hội nghị quân sự Nam Bộ quyết định thành lập trung đoàn Cửu Long. Tiểu đoàn 310 và một bộ phận của trung đoàn 99 được điều về phối hợp cùng với các đơn vị bạn để hình thành đơn vị mới này. Như vậy, LLVT của tỉnh đến lúc này chỉ còn lại 6 đại đội, lại bị dàn mỏng, trong khi đó, địch đang tập trung quân, ra sức lấn chiếm vùng giải phóng của tỉnh ở cù lao Minh. Cuộc kháng chiến của nhân dân Bến Tre lại đứng trước những thử thách đầy gay go, trong khi trên chiến trường toàn quốc, ta đang giành được những thắng lợi vang dội trong chiến dịch Biên giới (1950), hai binh đoàn Âu Phi sừng sỏ bị diệt gọn, cả phòng tuyến ngăn chặn phía biên giới Việt-Trung của địch bị đập tan. Con đường liên lạc từ vùng tự do Việt Bắc với hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa anh em được nối liền. Cuộc kháng chiến của nhân dân ta đã chuyển sang thế tiến công chiến lược trên chiến trường chính Bắc Bộ, còn địch thì buộc phải chuyển sang phòng ngự chiến lược.
Tuy nhiên, chúng còn hy vọng vào viện trợ quân sự của Mỹ để kéo dài chiến tranh. Đội quân chiếm đóng Pháp quay về càn quét, bình định, cố bám giữ chiến trường hậu địch, nhất là chiến trường Nam Bộ, nơi đông dân nhiều của.
Ở Bến Tre, địch tập trung lực lượng, chuẩn bị đánh chiếm cù lao Minh. Ngày 18–10–1950, chúng đưa quân tấn công chiếm đóng 4 xã ở Mỏ Cày (Minh Đức, Cẩm Sơn, Hương Mỹ, Tân Trung), cắt vùng giải phóng của tỉnh làm đôi, sau đó theo “vết dầu loang” chiếm đóng hết huyện Mỏ Cày y và Chợ Lách. Đến tháng 2–1951, chúng lấn chiếm huyện Thạnh Phú, và đến tháng 7–1951 chúng đã chiếm lại toàn bộ vùng giải phóng của tỉnh, pida thiết lập một hệ thống đồn bót dày đặc như mạng nhện, có xã chúng đóng đến 28 đồn. Toàn tỉnh có tới 1.036 đồn, bót và tháp canh. Chiếm đóng đến đâu, chúng thẳng tay bắn giết, hãm hiếp, cướp phá đến đó.
Phong trào kháng chiến Bến Tre lúc này chịu nhiều tổn thất to lớn. Hầu hết cán bộ đảng viên ở cơ sở bị đánh bật ra khỏi địa phương, nhiều đồng chí phải dạt sang tỉnh bạn. Cơ sở quần chúng bị xáo trộn, trong khi địch đẩy mạnh chiến tranh tâm lý, chiêu hồi, dụ hàng. Tỉnh ủy, huyện ủy và các đơn vị vệ quốc đoàn rút về căn cứ ở rừng Ba Tri, Thạnh Phú, Bình Đại, và phải luôn luôn di chuyển để tránh những cuộc bao vây, càn quét, đánh phá bằng phi pháo. Bị địch phong tỏa gắt gao, việc giao thông liên lạc giữa các cấp rất khó khăn, nhiều khi bị gián đoạn. Cuộc kháng chiến của nhân dân Bến Tre đang đứng trước những thử thách nghiêm trọng.
Địa chí Bến Tre