IV. TIẾP TỤC ĐẨY MẠNH ĐẤU TRANH CHÍNH TRỊ, VŨ TRANG, CHỐNG PHÁ KẾ HOẠCH BÌNH ĐỊNH GOM DÂN CỦA MỸ, NGỤY, TIẾN HÀNH CUỘC TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY MẬU THÂN, GÓP PHẦN ĐÁNH BẠI “CHIẾN TRANH CỤC BỘ” Ở MIỀN NAM VIỆT NAM (1965 - 1968).
Chiến lược “chiến tranh đặc biệt” thất bại. Ngày 1-4-1965, Tổng thống Johnan và Hội đồng an ninh quốc gia Mỹ vội vàng Chiến lược “chi quyết định đưa quân chiến đấu Mỹ vào miền Nam Việt Nam, kêu gọi các nước chư hầu (Úc, Tân Tây Lan, Nam Triều Tiên) gửi quân tham chiến, tiến hành “chiến tranh cục bộ” ở miền Nam và “chiến tranh phá hoại” ở miền Bắc5). Quân Mỹ ở miền Nam Việt Nam, từ con số 23.300 tên (vào ngày 31–12-1964) đã tăng vọt lên 184.300 (vào ngày 31–12–1965).
Mục tiêu chiến lược chủ yếu của quân viễn chinh Mỹ là “tìm diệt” chủ lực của quân giải phóng, hỗ trợ cho ngụy quân, ngụy quyền tiếp tục và đẩy mạnh chương trình bình định.
Ở Nam Bộ, Mỹ, ngụy coi Bến Tre là chiến trường bình định trọng điểm. Chúng đưa tên Nguyễn Phát Đạt về thay cho Trần Ngọc Châu, làm tỉnh trưởng Bến Tre và thay đổi hàng loạt quận trưởng, các tên chỉ huy chủ chốt trong các ngành quân sự, công an, tình báo...
Được sự yểm trợ của không quân Mỹ, địch liên tiếp mở những cuộc hành quân quy mô lớn vào vùng giải phóng, nhất là vùng căn cứ tiếp giáp thị xã, thị trấn, nhằm đánh bật lực lượng cách mạng ra khỏi vành đai thị xã, thị trấn. Trong 3 năm (19651967), địch mở 6.299 cuộc càn quét, trong đó có 26 cuộc càn quét qui mô cấp sư đoàn, 95 cuộc qui mô cấp trung đoàn, 4.086 cuộc qui mô nhỏ. Địch đã đưa về Ba Tri 7 tiểu đoàn bình định (có 1 đến 2 tiểu đoàn chủ lực hỗ trợ) mở liên tục các cuộc hành quân đánh phá, hy vọng cuối năm 1966 có thể hoàn thành kế hoạch bình định trọng điểm kiểu mẫu ở đây.
Đi đôi với các cuộc hành quân càn quét, không quân của Mỹ, ngụy còn ném bom, bắn phá bừa bãi vào các khu dân cư, chùa chiền, thánh thất, trường học. Pháo của hạm đội 7 từ ngoài khơi bắn vào các xã Thạnh Phong, Giao Thạnh (Thạnh Phú), Thới Thuận, Thừa Đức (Bình Đại). Cụm pháo ở căn cứ Đồng Tâm (Mỹ Tho) bắn vào các khu vực ven sông Tiền thuộc huyện Châu Thành.
Chúng còn sử dụng máy bay rải chất độc hóa học hầu khắp các huyện, nhất là vùng ven biển Thạnh Phú, Bình Đại, Ba Tri, các xã Châu Bình, Châu Hòa (huyện Giồng Trôm), Thành An, Tân Phú Tây (huyện Mỏ Cày) để hủy diệt môi sinh, gây nên những tác hại lớn lao cho cuộc sống của nhân dân vùng này.
Để đối phó lại âm mưu và thủ đoạn leo thang chiến tranh của Mỹ, Hội nghị toàn thể BCHTƯĐCS lần thứ 7 (12-1965) xác định “chống Mỹ, cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng của dân tộc ta từ Nam chí Bắc” và kêu gọi toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta “kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất kỳ tình huống nào, nhằm bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, tiến tới thực hiện hòa bình, thống nhất nước nhà”.
Tại Bến Tre, tháng 4 1966, Tỉnh ủy đã họp và chủ trương “nhanh chóng xây dựng lực lượng, xây dựng vùng giải phóng, chuẩn bị mọi điều kiện cùng toàn miền xông lên tấn công dịch, giành thắng lợi khi có thời cơ". Một phong trào “toàn dân quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược" được phát động. Kết quả là hàng ngàn thanh niên, có cả tín đồ các tôn giáo, tình nguyện đi thanh niên xung phong, gia nhập các LLVT.
Ngày 20–7–1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi: “Dù đế quốc Mỹ có tăng 10 vạn, 20 vạn quân hay nhiều hơn nữa, dù phải chiến đấu 10 năm, 20 năm hay lâu hơn nữa, nhân dân Việt Nam cũng quyết đánh đến thắng lợi hoàn toàn”.
Tháng 1-1966, bộ đội tỉnh tấn công vào đồn Phú Sơn (huyện Mỏ Cày), bộ đội địa phương huyện Bình Đại tấn công bót Châu Hưng. Tháng 4-1966, bộ đội tỉnh lại đột kích vào trung tâm huấn luyện dân vệ ở thị xã, diệt 200 tên. Tiếp đó, tháng 7–1966, bộ đội tỉnh và bộ đội địa phương Mỏ Cày tổ chức phục kích trên lộ Hòa Lộc (huyện Mỏ Cày) diệt 200 tên. Tháng 10–1966, lực lượng vũ trang của ta lại chặn đánh địch đi càn vùng Bình Khánh, Phước Hiệp, huyện Mỏ Cày, diệt 130 tên.
Quân Mỹ chọn Bến Tre làm nơi thí điểm chiến thuật “hạm đội nhỏ trên sông” để rút kinh nghiệm đối phó với chiến tranh du kích ở đồng bằng sông Cửu Long. Chúng đưa đến đây “đoàn xung kích* 117 cùng 100 tàu chiến lớn nhỏ, trực thăng, pháo bình, tàu xưởng sửa chữa, tăng cường việc kiểm soát đi lại trên sông Tiền, sông Hàm Luông và sông Cổ Chiên.
Tháng 1-1967, chúng mở lại cuộc hành quân lớn mang tên “Cửu Long 1” và “Sóng Thần 5” càn quét vùng căn cứ của ta ở Thạnh Phú. Với số lượng hơn 4.000 tên, cùng với sự chi viện của không quân và pháo của Hạm đội 7, chúng đánh vào 5 xã An Qui, An Nhơn, An Thạnh, Giao Thạnh, Thạnh Phong.
Tiểu đoàn bảo vệ căn cứ 518 cùng với dân quân du kích đã chặn đánh địch ở Hồ Cỏ, Cồn Lớn, Bần Mít, Cồn Tra, Cồn Điệp, gây cho địch nhiều thiệt hại. Phối hợp với mũi tiến công vũ trang, các lực lượng chính trị, quần chúng đã đấu tranh ngăn chặn các mũi càn quét của địch.
Trước sức chống trả của quân dân Thạnh Phú, ngày 15–1– 1967, quân Mỹ và quân ngụy buộc phải rút lui. Trong trận này, LLVT và nhân dân Thạnh Phú đã loại khỏi vòng chiến đấu 265 tên (trong đó có 178 tên Mỹ, chư hầu và 1 đại tá ngụy), bắn cháy 3 tàu, bắn rơi và bắn hỏng 14 máy bay, thu trên 10.000 viên đạn các loại và 400 súng, bảo vệ được đầu cầu hành lang và khu căn cứ. Đây là lần đầu tiên lực lượng quần chúng đấu tranh trực diện với quân Mỹ
Đầu năm 1967, đế quốc Mỹ tăng quân ồ ạt vào miền Nam, nâng tổng số quân viễn chinh Mỹ từ 31 vạn lên 44 vạn tên, mở những cuộc phản kích chiến lược vào mùa khô để xoay chuyển tình thế.
Ở Bến Tre, song song với mặt trận đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị, phong trào binh vận được giữ vững và tiếp tục phát triển.
Tháng 12–1967, BCT họp và quyết định “chuyển cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam sang một thời kỳ mới, thời kỳ giành thắng lợi quyết định”, và chủ trương “động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, đưa cuộc chiến tranh của ta lên một bước phát triển cao nhất, bằng phương pháp tổng công kích, tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định”.
Sau khi tiếp nhận nghị quyết của Trung ương, Tỉnh ủy đã triệu tập cuộc hội nghị mở rộng để bàn kế hoạch thực hiện.
Một bộ chỉ huy thống nhất dược thành lập. Hàng ngàn đảng viên, đoàn viên, thanh niên, tình nguyện đi dân công, vượt qua đồn bót địch, tải đạn dược, vũ khí ra mặt trận.
Vào 1 giờ đêm 31–1–1968 (tức mồng một Tết Mậu Thân) cuộc tấn công vào thị xã của LLVT cách mạng bắt đầu. Cùng đêm, 1 trung đội đặc công đã tấn công vào sân bay Tân Thành, phá hủy 4 máy bay và 1 cụm pháo của địch. Đội đặc công thủy do Hoàng Lam chỉ huy cũng tấn công vào Bãi quân xa ngụy (nay là Hội trường tỉnh).
Bị tấn công bất ngờ, Mỹ, ngụy vội vã điều quân từ các nơi, tổ chức các cuộc hành quân nhằm giải tỏa cho thị xã. Nhiều trận đánh giằng co quyết liệt giữa ta và dịch diễn ra ở khu vực chợ Ngã Năm.
Phối hợp với thị xã, các huyện đều nổi dậy tấn công địch. Ở Chợ Lách, mặc dầu bộ đội địa phương huyện bị điều về thị xã, LLVT huyện chỉ còn 16 cán bộ, chiến sĩ, nhưng bằng ba mũi giáp công kết hợp với nghi binh, lực lượng cách mạng đã bức hàng và bức rút 40 đồn bót và công sở.
Ở Mỏ Cày, LLVT huyện đột nhập vào thị trấn, diệt toàn bộ các tháp canh, bao vây, uy hiếp mạnh chi khu, giết chết tên quận trưởng và nhiều binh sĩ, sĩ quan. Cùng lúc, lực lượng du kích và quần chúng bức hàng 12 đồn bót.
Ở các huyện Châu Thành, Giồng Trôm, Ba Tri, Thạnh Phú, Bình Đại, dân quân du kích tổ chức nhiều trận đánh trên đường giao thông thủy bộ, bức hàng hai bót trên lộ liên tỉnh số 6 và sáu bót trên lộ 26, để giải vây cho thị xã. Ngày 2–2-1968, địch vội vã đổ một tiểu đoàn lính Mỹ xuống sân bay Tân Thành và tiếp theo ngày 3–2–1968, lại cho đổ một tiểu đoàn lính Mỹ nữa xuống đồng Cây Da.
Ngày 5–5–1968, quân ta mở đầu đợt tấn công thứ hai.
Để đối phó với đợt tấn công lần này, Mỹ đã đưa nhiều tiểu đoàn lính Mỹ, cùng với hạm đội nhỏ trên sông đến Bến Tre, tấn công các vị trí đóng quân của ta. Chúng cho máy bay B.52 thả hàng nghìn quả bom xuống khu vực Hữu Định, Phước Thạnh (Châu Thành) và đưa quân đến đánh phá các khu vực ven thị xã.
Ngày 25–5–1968, quân ta lập được một chiến công lớn, đánh chìm 28 tàu, diệt trên 700 tên địch tại sông Giồng Trôm. Đơn vị săn tàu trong trận đánh này được tuyên dương “Anh dũng kiên cường diệt nhiều giặc Mỹ”.
Đến cuối năm 1968, sau hơn một năm chiến đấu, quân và dân Bến Tre đã tiêu diệt và tiêu hao 28.257 tên địch, diệt 195 đồn, bắn rơi 97 máy bay, đánh chìm và bắn cháy 126 tàu, phá hủy 96 xe quân sự. Bộ đội đặc công thủy của Bến Tre với những chiến công vang dội, xứng đáng với danh hiệu “Cỡi sóng Hàm Luông, nhận chìm hạm Mỹ”.
Với những chiến công trên, trong hội nghị Tổng kết du kích chiến tranh toàn miền Nam tháng 10–1968, Bến Tre đã được tuyên dương “Anh dũng Đồng khởi, thắng Mỹ diệt ngụy” và được công nhận là một trong ba ngọn cờ đầu của phong trào nhân dân du kích chiến tranh.
Địa chí Bến Tre