II. ĐẤU TRANH CHÍNH TRỊ KẾT HỢP DIỆT ÁC, TRỪ GIAN, GIỮ GÌN VÀ PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG, TIẾN LÊN “ĐỒNG KHỞI” GIÀNH QUYỀN LÀM CHỦ Ở NÔNG THÔN (1957-1960)
Từ đầu năm 1957, với bộ máy đàn áp đồ sộ, Mỹ, Diệm phát động cuộc chiến tranh một phía, mở ra thời kỳ khủng bố công khai những người cộng sản và nhân dân yêu nước trên toàn miền Nam, nhằm mục đích tiêu diệt phong trào cách mạng, biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ.
Ở Bến Tre, để thực hiện âm mưu này, chúng lập ra 4 khu trù mật: Thành Thới (Mỏ Cày), An Hiệp (Châu Thành), An Hiệp (Ba Tri), Thới Thuận (Bình Đại), gom dân vào để kìm kẹp khống chế, tách dân ra khỏi cách mạng. Khu trù mật Thành Thới được chọn làm thí điểm cho cả khu Trung Nam Bộ. Trong các khu tập trung, chúng tiến hành phân loại dân chúng, bắt làm căn cước, làm bản kê khai danh sách gia đình có dán ảnh, tổ chức “ngũ gia liên bảo” với âm mưu dùng gia đình này giám sát gia đình khác. Chúng kiểm soát và hạn chế sự đi lại của nhân dân, bắt mỗi nhà ban đêm phải treo đèn trước cửa, phải tham gia canh gác, báo động, bắt người lạ mặt vào xóm ấp.
Thủ đoạn vô cùng thâm độc của Mỹ, Diệm trong âm mưu tiêu diệt lực lượng cách mạng là bắt ép nhân dân “tố cộng”, hòng làm rạn nứt mối quan hệ máu thịt giữa Đảng và quần chúng. Trong quá trình thực hiện “tố cộng, diệt cộng”, bọn tay sai phản động đã sử dụng mọi biện pháp từ dụ dỗ mua chuộc đến đàn áp dã man. Thâm độc hơn, chúng còn dùng chước “dĩ cộng diệt cộng”, khai thác và dùng bọn đầu hàng phản bội để chỉ điểm, truy lùng, bắt bớ cán bộ và quần chúng cơ sở cách mạng. Thực hiện phương châm “tiêu diệt cộng sản không thương tiếc”, địch đã thẳng tay đàn áp, giết chóc hàng ngàn đảng viên, cán bộ, quần chúng cách mạng. Trường học, thánh thất, nhà thờ, đình chùa trở thành nơi tra tấn, giam cầm. Khám Bến Tre không còn đủ chỗ để giam người, tù nhân phải nằm la liệt ngoài sân. Nhiều người bị giết chết không cần xét xử, mỗi ngày có hàng chục người bị thủ tiêu, xác ném xuống sông. Phong trào cách mạng Bến Tre đứng trước những thử thách vô cùng hiểm nghèo.
Quán triệt nghị quyết BCT, tháng 6-19567, “Đề cương cách mạng miền Nam” của đồng chí Lê Duẩn và Nghị quyết của XUNB tháng 12–1956, Tỉnh ủy Bến Tre đã kiểm điểm, đánh giá tình hình và đề ra một số chủ trương khẩn cấp trước mắt để giữ gìn lực lượng, đấu tranh chống địch, bảo vệ cách mạng, bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân. Thực hiện chủ trương trên, Đảng bộ Bến Tre vừa tích cực xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang mật, vừa lãnh đạo phong trào toàn dân đấu tranh chống khủng bố, bảo vệ Đảng, bảo vệ cách mạng. Quần chúng đã biến các cuộc “tố cộng” của Mỹ, Diệm thành trò hề đả kích lại chính chế độ đó, đã tiến hành đấu tranh với nhiều hình thức phong phú. Nhiều cuộc đấu tranh đã mang lại kết quả, như bà con đã mời được Hội luật sư từ Sài Gòn xuống Sóc Sãi điều tra tình hình và buộc phải đổi tên quận trưởng gian ác ở đây đi nơi khác. Ở Khánh Thạnh Tân (Mỏ Cày), quần chúng đấu tranh buộc địch phải bắt giam tên đại diện Nhơn ác ôn.
Trong buổi lễ khánh thành khu trù mật Thành Thới cuối năm 1958 có Ngô Đình Diệm về dự, nhân dân đã cử người đưa thư tố cáo những hành động quấy nhiễu, ức hiếp quần chúng của bọn tay sai ở địa phương, gây nên quan cảnh lộn xộn, khiến buổi lễ phải kết thúc sớm.
Tháng 12–1958, hưởng ứng phong trào đấu tranh của cả nước lên án Mỹ, Diệm đầu độc giết hại 1.000 tù nhân ở trại giam Phú Lợi, hơn 500 đồng bào Bến Tre đã kéo lên Sài Gòn biểu tình. Sau khi được tin nhiều người trong cuộc biểu tình bị bắt giam (khoảng 100 người), hàng vạn quần chúng trong tỉnh đã kéo về thị xã, các thị trấn biểu tình và tổ chức lễ cầu siêu ở chùa, thánh thất, nhà thờ để tố cáo bọn giết người.
Có biết bao tấm gương anh dũng hy sinh để bảo vệ Đảng, bảo vệ cán bộ xuất hiện trong những năm 1957-1959. Mẹ Kế ở Giồng Trôm có chồng, con đi hoạt động cách mạng. Địch đã bắt mẹ tra tấn dã man, buộc phải chỉ chỗ ở của chồng con, nhưng mẹ vẫn một mực không khai. Trước khi chết, mẹ đã chỉ vào ngực mình và thét lớn: “Chồng, con tao ở trong tim tao, bay muốn kiếm thì mọi tim tao mà lấy”
Em Nguyễn Thị Chi, 15 tuổi ở Giồng Trôm, cha mẹ đi vắng, dịch kéo đến bắt em đánh đập dã man, tra hỏi hầm bí mật, em vẫn cố chịu đựng, kiên quyết không chỉ, do đó đã bảo vệ được một đồng chí lãnh đạo ở dưới hầm.
Khi có những cán bộ không may bị địch giết chết, bà con tổ chức làm đám tang, làm lễ cầu siêu để biểu thị sự phản đối của tập thể quần chúng đối với tội ác của địch. Trước sự khủng bố ác liệt của kẻ thù, nhiều đảng viên vẫn trung thành với Đảng, với cách mạng, giữ vững khí tiết của người cộng sản. Anh Nguyễn Văn Duy, Huyện ủy viên Giồng Trôm bị địch bắn trọng thương, rồi bị đánh dập, tra tấn, bị cột vào xe kéo lê trên đường cho đến chết, vẫn không khai báo cơ sở cách mạng. Chị Trần Thị Tiết (thường gọi là chị Út Hạnh), một cán bộ của huyện Thạnh Phú bị bắt, bị đánh đập tra tấn, đến khi sắp chết bị chúng đem bỏ ở nhà xác. Nhờ cơ sở đưa ra ngoài và cứu sống, chị lại trở về với đội ngũ. Anh Đoàn Văn Tranh, Huyện ủy viên Mỏ Cày đang chuẩn bị kế hoạch “Đồng khởi”, không may bị địch bắt, bị tra tấn dã man. Thà chết cũng không khai một lời, bảo đảm kế hoạch Đồng khởi nổ ra đúng dự định, thắng lợi. Đồng chí Lộ ở Hiệp Hưng, đồng chí Lê Tặng ở Ba Tri, đồng chí Trung ở Thạnh Phú, đồng chí Hoàng Vũ ở Bình Đại v.v... cũng đã nêu những tấm gương hy sinh bất khuất như vậy.
Tinh thần đấu tranh kiên trung, bất khuất của cán bộ và nhân dân đã làm thất bại âm mưu đánh phá, tiêu diệt phong trào cách mạng của địch. Nhờ đó, tổ chức Đảng vẫn tồn tại và bám chắc quần chúng, lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống địch.
Trong những năm 1957 - 1958, trước sự tàn bạo của địch, nhiều trường hợp, nhân dân đã dùng võ trang tự vệ để hỗ trợ cho đấu tranh chính trị. Những tên cảnh sát, công an, do thám, chỉ điểm, bị trừng trị ngày càng nhiều. Tình hình đó làm cho bọn ác ôn bắt đầu chùn tay. Nhiều cơ sở nội tuyến đã góp phần diệt ác ôn bằng thủ pháp riêng của mình.
Cho đến cuối năm 1958 đầu 1959, phong trào đấu tranh chính trị có kết hợp bí mật, diệt ác trừ gian đã phát triển đến đỉnh cao. Số đảng viên còn lại được tôi luyện đã tỏ ra già dặn trong lãnh đạo đấu tranh. Quần chúng cũng tích lũy được nhiều kinh nghiệm và có quyết tâm chiến đấu cao. Các tổ chức thanh niên vũ trang mật được tổ chức ở hầu hết các xã, có biện pháp khôn khéo trong hoạt động võ trang tuyên truyền, diệt ác, trừ gian. Tất cả những nhân tố trên đã góp phần tạo nên tiền đề cho một cuộc nổi dậy giành quyền làm chủ về tay nhân dân.
Đầu năm 1959, dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh, BCHTƯĐCS họp Hội nghị lần thứ 15. Hội nghị xác định nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là “giải phóng miền Nam tránh khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam”. Về phương pháp cách mạng, Hội nghị nhấn mạnh: “Con đường phát triển cơ bản của cách mạng miền Nam là con đường bạo lực, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang hoặc nhiều, hoặc ít để đánh đổ quyền thống trị của đế quốc và phong kiến, dựng nên chính quyền cách mạng của nhân dân”. Nghị quyết 15 ra đời, mở đường cho cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng chuyển sang thế tiến công.
Tiếp nhận được Nghị quyết 15, tháng 11–1959, XUNB họp hội nghị lần thứ 4, đề ra nhiệm vụ cụ thể cho Đảng bộ Nam Bộ.
Sau khi có nghị quyết Trung ương và nghị quyết của XUNB, tháng 12–1959, Khu ủy khu 8 họp hội nghị có đại biểu các tỉnh ủy về tham dự. Hội nghị quyết định phát động quần chúng nổi dậy phá thế kìm kẹp của địch, giành quyền làm chủ nông thôn, các tỉnh phải khẩn trương tổ chức xây dựng lực lượng chính trị đồng thời với LLVT, chuẩn bị cho cuộc nổi dậy ở xã, ấp vào tháng 1–1960. Phương châm nổi dậy là phải rộng khắp, để địch không tập trung đánh phá được, phải đưa đông đảo quần chúng nhân dân vùng lên đấu tranh, nhưng phải giữ thế hợp pháp cho quần chúng, tránh đấu tranh vũ trang đơn thuần; hoạt động vũ trang cần khéo léo, hỗ trợ cho đấu tranh chính trị, tránh phô trương nhằm gây tiếng tăm.
Tiếp thu nghị quyết của Khu ủy, Tỉnh ủy Bến Tre ngay các hoạt động chuẩn bị cho khởi nghĩa. Tỉnh ủy chỉ đạo các huyện ủy, các chi bộ xã nỗ lực đẩy mạnh phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng, móc nối và củng cố cơ sở binh vận, bổ sung lực lượng, để thành lập 3 đội võ trang tuyên truyền của. tỉnh. Số cán bộ điều lắng các nơi được gọi về địa phương nhận nhiệm vụ mới, để chuẩn bị cho cuộc nổi dậy. Tỉnh ủy quyết định đánh đồn Lộc Thuận (Bình Đại) ngày 19–12–1959 để thăm dò phản ứng của địch. Trong trận này ta thu được 7 súng, địch không có phản ứng gì đáng kể.
Để triển khai thực hiện Nghị quyết 15 của Trung ương và nghị quyết của Khu ủy, ngày 1–1–1960, hội nghị cán bộ phía cù lao Minh được triệu tập dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Thị Định. Sau khi phân tích đánh giá so sánh lực lượng, hội nghị đi đến quyết định phát động một tuần lễ nổi dậy đồng loạt trong toàn tỉnh, vào trung tuần tháng 1–1960, lấy ba xã Định Thủy, Phước Hiệp, Bình Khánh (Mỏ Cày) làm điểm đột phá, đồng thời làm điểm chỉ đạo riêng của Tỉnh ủy để rút kinh nghiệm. Hội nghị nêu yêu cầu của cuộc khởi nghĩa cần đánh vào chỗ yếu nhất của địch là bộ máy kìm kẹp ở xã ấp và lưu ý trong khi tiến hành trừ gian diệt ác, tránh chém giết tràn lan trả thù cá nhân. Việc sử dụng đấu tranh võ trang phải nhằm phục vụ và phục tù đấu tranh chính trị, đồng thời xác định tư tưởng chỉ đạo cuộc khởi nghĩa là “tiến công địch liên tục, phát triển lực lượng cách mạng hết khả năng, không hạn chế. ”. Hội nghị cũng nhấn mạnh đến yêu cầu khẩn trương, nhưng phải bảo đảm tuyệt đối bí mật, cần tận dụng yếu tố bất ngờ để kẻ địch không kịp đối phó, quyết giành thắng lợi cao nhất từ trận khởi đầu.
Đêm 16 rạng ngày 17–1–1960, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Thường vụ Tỉnh ủy, cuộc khởi nghĩa đã nổ ra theo đúng kế hoạch dự định và đã giành thắng lợi nhanh, gọn ở Định Thủy. Tại đây, lực lượng quần chúng nổi dậy kết hợp với binh vận có võ trang hỗ trợ đã tiêu diệt tổng đoàn dân vệ do tên đội Tý cầm đầu và chiếm đồn Vàm Nước Trong, giải tán tề xã, phá hết các hình thức kìm kẹp của địch.
Tại xã Phước Hiệp, “tổ hành động” cùng nhân dân bao vây đồn dân vệ, lùng bắt tề, điệp, giải tán chính quyền xã. Sáng 18– 1–1960, 3 đò máy chở lính bảo an theo rạch Ông Bồng vào xã Phước Hiệp bị đội vũ trang của ta bắn chìm một chiếc, diệt tên trung úy, buộc chúng phải tháo chạy về thị trấn. Bọn dân vệ trong đồn Phước Hiệp xé rào, bỏ chạy. Xã Phước Hiệp được giải phóng.
Ở xã Bình Khánh, sáng ngày 20–1–1960, sau khi lập kế diệt gọn bọn công an Ngô Quyền và công an tỉnh đóng tại xã, nhân dân nhất tề xông ra lùng bắt bọn tề điệp, bao vây và gọi hàng đồn dân vệ, bắt sống tất cả tù binh. Tại đây, trung đội vũ trang của tỉnh mang phiên hiệu 264 đã ra đời.
Ngày 21–1–1960, một đại đội thủy quân lục chiến từ thị xã Bến Tre đến cứu viện Phước Hiệp bị đội vũ trang bắn chìm một ghe máy, diệt bọn địch đi trên ghe, buộc số còn lại phải rút lui.
Một đại đội thủy quân lục chiến khác đến xã Bình Khánh cũng bị du kích đánh lui.
Thắng lợi cuộc khởi nghĩa ở vùng điểm đột phá mở màn đã cổ vũ cho phong trào khởi nghĩa chung trong toàn tỉnh. Ở các huyện Mỏ Cày, Giồng Trôm, Châu Thành, Thạnh Phú, Ba Tri, Bình Đại, nhân dân đã đồng loạt nổi dậy. Kết quả có 22 xã hoàn thành việc đập tan bộ máy kìm kẹp, 25 xã diệt được ác, bao vây đồn bót, giải phóng được nhiều ấp. Ở nhiều huyện, xã, các tổ, đội vũ trang được thành lập, nhân dân họp mít-tinh, lập tòa án xét xử bọn tề ngụy phản động.
Việc tịch thu ruộng đất của bọn Việt gian tạm cấp cho nông dân được tiến hành ngay. Riêng ở Mỏ Cày, trong tuần lễ nổi dậy, sáu trăm công ruộng đã được đem chia cho nông dân, bảy trăm năm mươi giạ lúa tô của địa chủ bị buộc phải trả lại cho đồng bào, nhân dân phấn khởi tích cực đóng góp lương thực, tài chính cho cách mạng.
Đầu tháng 2-1960, Tỉnh ủy họp hội nghị sơ kết rút kinh nghiệm tuần lễ nổi dậy, chủ trương phát triển tiếp lực lượng, giữ thế cho phong trào, chống địch phản kích, chuẩn bị cho đợt cao điểm sau.
Đầu tháng 3, Ngô Đình Diệm đến Mỏ Cày thị sát tình hình, coi đây là cái “ung nhọt Kiến Hòa” cần dập tắt, không để lây lan.
Để phản công lại cách mạng, ngày 25-3-1960, Diệm huy động 10.000 quân, gồm thủy quân lục chiến, biệt động, lính dù cùng với quân địa phương, có 70 xe quân sự, 17 tàu chiến, 15 khẩu pháo 105 ly, tiến hành bao vây càn quét quy mô 3 xã Định Thủy, Phước Hiệp, Bình Khánh.
LLVT của ta chỉ với 1 trung đội mới thành lập, trang bị còn thô sơ, đã dựa vào địa hình thuận lợi, đánh thắng địch ngay trận đầu, diệt hơn 50 tên địch, thu nhiều vũ khí. Phối hợp với hoạt động vũ trang chống phản kích. Tỉnh ủy đã phát động quần chúng ở 3 xã Định Thủy, Phước Hiệp, Bình Khánh và các xã lân cận dùng ghe xuồng chở người lên thị trấn Mỏ Cày, đến dinh quar ởng tố cáo lính chủ lực đàn áp, giết chết đồng bào, xem thường cả chính quyền địa phương. Cuộc đấu tranh kéo dài 12 ngày đêm và đã giành được thắng lợi. Đại diện của ngụy quyền Sài Gòn phải tới Mỏ Cày hứa rút quân và đến ngày 20-4 thì cuộc càn chấm dứt. Thế là chiến dịch “Bình trị Kiến Hòa” của một vạn quân hỗn hợp của ngụy quyền Sài Gòn đã thất bại. Tỉnh trưởng Lê Ba bị cách chức, Nguyễn Huỳnh được cử đến thay thế.
Cuối tháng 4–1960, Tỉnh ủy họp hội nghị mở rộng ở xã Châu Bình (Giồng Trôm) tổng kết cuộc Đồng khởi mùa xuân năm 1960. Tại hội nghị này, đã đi đến một số kết luận quan trọng. Hiện nay phong trào cách mạng đang ở thế chủ động tiến công, khí thế sôi nổi. Quan điểm quân sự đơn thuần được uốn nắn, khắc phục. Phương châm đánh địch bằng “hai chân, ba mũi” (miền núi và đồng bằng, chính trị kết hợp với võ trang và binh vận) đã duy trì được thế hợp pháp của quần chúng trong đấu tranh. Cũng từ hội nghị này hai chữ “Đồng khởi” bắt đầu ra đời, mang nội dung: “đồng loạt, đồng tình, đồng lòng nổi dậy, quật khởi chống lại địch”.
Tháng 6–1960, XUNB quyết định phát động Đồng khởi trong toàn Nam Bộ. Chấp hành chỉ thị trên, Thường vụ Tỉnh ủy Bến Tre quyết định mở cuộc “Đồng khởi” đợt 2, thời gian từ 15–20 ngày, hướng chính là huyện Giồng Trôm, hướng phụ là huyện Mỏ Cày, điểm chỉ đạo riêng của tỉnh là năm xã Phong Nẫm, Phong Mỹ, Châu Phú, Châu Hòa, Châu Bình thuộc huyện Giồng Trôm. Đồng thời Tỉnh ủy cũng chủ trương đẩy mạnh hoạt động ở thị xã, nhằm buộc chân LLVT địch ở nơi đây, tạo điều kiện thuận lợi cho các trọng điểm giành thắng lợi.
Thực hiện chủ trương này, ngày 21, 22–9–1960, hàng vạn quần chúng đổ xô về thị xã mua lương thực, thực phẩm, hàng hóa dự trữ, tung tin sắp có đánh lớn. Trưa 23–9, đại đội 261 phục kích diệt gọn một trung đội bảo an ngụy trên đường Tân Thạch thị xã. Cùng ngày, một trung đội vũ trang của Giồng Trôm cũng diệt gọn một trung đội bảo an địch trên đường Giồng Trôm – thị xã. Đến đêm 23–9, tự vệ thị xã diệt đồn dân vệ ở cầu Nhà Thương, tước vũ khí của dân vệ đồn cầu Cái Cối. Sáng 24–9, địch phải cấp tốc điều hai tiểu đoàn bảo an từ Giồng Trôm phòng thủ thị xã, khiến cho lực lượng quân sự của chúng ở đây mỏng đi. Để ngăn chặn địch từ thị xã kéo đến đàn áp, nhân dân huyện Giồng Trôm đã phá sập cầu Bình Chánh bằng hàng trăm cây dừa kết thành bè, cắt đứt đường giao thông tiếp tế từ thị xã đi Giồng Trôm.
Từ chiều ngày 24–9–1960, trong tiếng trống mõ vang động, Bến Tre bước vào “Đồng khởi” đợt 2. Tại đồn Châu Phú, hồi 15 giờ ngày 24-9, một đại đội trưởng đại đội nghĩa binh Công giáo đã làm nội ứng phối hợp với tiểu đội vũ trang của đại đội 261 giả làm lính bảo an, kéo thẳng vào đồn tước súng, bức hàng toàn bộ.
Từ đồn Châu Phú, LLVT cùng cơ sở nội tuyến dùng xe lam tiến đánh bót nhà thờ Châu Phú. Bọn lính ở đây trở tay không kịp, đã nhanh chóng đầu hàng. Tiếp đó, các cơ sở nội tuyến dẫn đầu các gia đình binh sĩ tiếp tục kéo sang Châu Thới, phá bung cửa đồn, cho quân ta tràn vào và kêu gọi địch đầu hàng. Cùng lúc, nhân dân các xã Phong Nẫm, Phong Mỹ, Châu Bình, Châu Hòa cùng các tiểu đội vũ trang của xã kết hợp với nội tuyến kéo đi san bằng hệ thống đồn bót địch dọc sông Ba Lai, bắt 100 tù binh, thu được nhiều súng, mở ra một vùng giải phóng rộng lớn.
Đêm 24–9, nhân dân 5 xã họp mít-tinh mừng chiến thắng, đồng thời chuẩn bị kế hoạch chống địch càn quét, phản kích. Hàng chục vạn quần chúng trong tỉnh đã bao vây đồn bót, nổi trống mõ, đốt đuốc, xuống đường biểu tình thị uy, phát loa kêu gọi. Trước khí thế sôi sục của quần chúng, 20 đồn bót ở Giồng Trôm đã nộp súng qui hàng, hàng chục đồn ở Châu Thành, Bình Đại, Thạnh Phú, Mỏ Cày, Ba Tri bị diệt, hàng chục xã được giải phóng.
Cuộc Đồng khởi đợt 2 mở ra với quy mô toàn tỉnh, khí thế tiến công của phong trào mãnh liệt chưa từng thấy. Đến cuối năm 1960, toàn tỉnh đã có 51 xã trong số 115 xã hoàn toàn giải phóng, 21 xã giải phóng 1 phần, nhân dân đã làm chủ 300 ấp trong tổng số 500 ấp. Ở nhiều nơi, địch tung lực lượng phản kích, nhưng phần lớn đều bị các cuộc đấu tranh trực diện của quần chúng chặn đứng, hoặc tạo điều kiện cho LLVT ta tiêu hao, tiêu diệt.
Ngày 20–12–1960, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời. Tại Bến Tre, ngày 28–12–1960, ở ấp Bến Bàu (Ba Tri), Đại hội nhân dân tỉnh khai mạc với sự tham dự của 400 đại biểu các huyện, bầu ra Ủy ban Mặt trận Dân tộc Giải phóng tỉnh, thực hiện chức năng của chính quyền cách mạng. Đông đảo đồng bào trong tỉnh vô cùng phấn khởi. Nhiều cuộc mít-tinh chào mừng sự ra đời của Mặt trận được tổ chức ở khắp nơi. Thắng lợi to lớn của cao trào Đồng khởi đã tạo ra thế và lực mới, đưa phong trào cách mạng trong toàn tỉnh tiếp tục tiến lên.
Địa chí Bến Tre