Lịch sử khẩn hoang hình thành tỉnh Bến Tre từ đấu thế kỉ XVII đến cuối thế kỉ XIX
1. Nguổn gốc dân cư Bến Tre
Đất Bến Tre hình thành do phù sa của sông Cửu Long bồi đắp. Đến đầu thế kỉ XVII, phấn lớn đất đai còn hoang vu, lầy lội, là nơi nhiều loài dã thú như cọp, heo rừng, trâu rừng, cá sấu, trăn, rắn sinh sống.
Trong sách “Phủ biên tạp lục” viết vể xứ Đàng Trong giữa thế ki XVIII, Lê Quý Đôn ghi: “Từ các cừa biển Cần Giờ, Lôi Lạp, cửa Đại, cửa Tiểu trở vào toàn là rừng rậm hàng ngàn dặm”.
Tuy còn là rừng rậm hoang vu như Lê Quý Đôn đã miêu tả, nhưng dó chỉ là nhìn từ bên ngoài, còn bên trong đã có các “lõm” dân cư khai phá ruộng nương để sinh sống. Đó là những lưu dân người Việt từ miến Bắc và miền Trung vào, nhưng chủ yếu là miền Trung, đa số là những người nông dân nghèo khổ vào Nam tìm đất sống, nhất là trong thời gian quân Trịnh lợi dụng chúa Nguyễn đang lúng túng trước phong trào khởi nghĩa Tây Sơn, vượt sông Gianh, đánh chiếm Thuận Hoá, Quảng Nam (1774). Ngoài ra, còn có các thành phần khác như binh lính, người trốn lính, tù nhân bị lưu dày, người có tội với triều đình, người Minh Hương hay một số người có tiền của vào khai phá,...
2. Sự khai phá và định cư của người Việt trên đất Bến Tre
Khi đặt chân lên đất Bên Tre, những lưu dân người Việt chọn những giồng đất cao ráo dể sinh sống. Vùng dất Ba Tri dược khai phá sớm nhất vì nơi dây là địa điểm dừng chân của các lưu dân theo dường biển. Lần hổi, dân cư ngày càng đông đúc và lập nên thôn, trại, làng.
Nhờ những kinh nghiệm trong sản xuất ở quê nhà, khi dến vùng dẩt mới mênh mông, nhũng người dân đã tạo nên những cánh đồng bao la, những vườn dừa bạt ngàn, nhũng vườn cày ăn trái tươi tốt.
Chỉ trong hai thế kỉ, những vùng dất hoang vu dầy dã thú, các cù lao nằm ở cuối vùng sông Tiền, Ba Lai, Hàm Luông, Cổ Chiên đã trờ thành nơi sản xuất dừa, trái cây, gạo ngon và nổi tiếng.
3. Quá trình hình thành về mặt hành chính
Từ năm 1757, Bến Tre được gọi là tổng Tân An thuộc châu Định Viễn, dinh Long Hồ.
Năm 1808, tổng Tân An được thăng lên thành huyện Tân An, phủ Định Viễn, trấn Vĩnh Thanh gốm hai tổng An Bào và Tân Minh.
Năm 1808, cù lao An Hoá là một bộ phận cùa tổng Hoà Bình, huyên Kiến Hoà, phủ Kiến An, Trấn Định Tường. Năm 1832, Nam kì lúc ấy được chia làm 6 tỉnh : Biên Hoà, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên. Vùng đất Bến Tre là phủ Hoằng An nằm trong tỉnh Vĩnh Long gồm hai huyện Bảo An (cù lao Bảo) và Tân Minh (cù lao Minh).
Năm 1832, cù lao An Hoá với hai tổng Hoà Quới và Hoà Minh nằm trong huyện Kiến Hoà, tỉnh Định Tường.
Nám 1844, Bến Tre gồm hai phù Hoằng An và Hoằng Trị thuộc tỉnh Vĩnh Long. Năm 1871, thực dân Pháp lập Sở Tham biện Bến Tre.
Ngày 1 - 1 - 1900, Toàn quyền Đông Dương Pôn Đu-me (Paul Doumer) cho thực hiện Nghị định kí ngày 25 - 12 - 1899 đổi các Sở tham biện thành tỉnh, Bến Tre được gọi là tỉnh bắt đầu từ đó (chỉ gồm có cù lao Bảo và cù lao Minh, có bốn quận : Châu Thành, Ba Tri, Mỏ Cày và Thạnh Phú ; đến năm 1948 cù lao An Hóa thuộc Mỹ Tho mới được chính quyền cách mạng nhập vào phần đất Bến Tre.