Thượng thư: Lê Văn Đức (1793-1842), chiến công hiển hách, văn võ song toàn.
Ông là người ở huyện An Bảo, nay thuộc huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre. Năm 1813, Lê Văn Đức thi đỗ cử nhân , được bổ làm Tri huyện ở Tri Viễn.
-Năm Minh Mạng thứ 3 (1822), ông làm Lang trung bộ Công.
-Năm 1828, ông được thăng Thượng thư bộ Binh.
-Năm 1833, một người Tày ở Tuyên Quang tên là Nông Văn Vân khởi binh chống lại triều đình, Lê Văn Đức liền được sung chức Tham tán quân vụ đại thần.
Giải vây được thành tỉnh Tuyên Quang, nhà vua sung ông làm Tổng đốc Sơn - Hưng - Tuyên, để cùng các tướng dẫn đại binh đi đánh đại bản doanh của Nông Văn Vân ở Vân Trung (Cao Bằng).
Sau nhiều tháng hành quân gian lao và hiểm nguy, vì địa hình hiểm trở lại thường xuyên bị phục kích, nên đến cuối năm 1833, đại binh của ông mới vào phá được Vân Trung.
Nhưng trên đường trở về thành Tuyên Quang, bị đối phương phục kích, làm chết và bị thương nhiều lính, ông bị triều đình giáng bốn cấp, phải lấy công chuộc tội.
Năm 1834, Nông Văn Vân dẫn cả ngàn quân đi đánh chiếm tỉnh thành Cao Bằng lần thứ hai. Các quan đầu tỉnh đều bỏ chạy. Hay tin, nhà vua lại cử Lê Văn Đức làm Tổng đốc đạo Tuyên Quang mang quân đi trấn áp. Bị thua trận, Nông Văn Vân trốn trong rừng bị quân triều phóng lửa đốt chết.
-Lê Văn Đức được phong là Ân Quang tử, thăng trật Hiệp biện Đại học sĩ, tiếp tục truy bắt các thuộc hạ của Nông Văn Vân đang lẩn trốn.
-Ít lâu sau, Lê Văn Đức được triệu về kinh làm Cơ mật viện đại thần, lĩnh chức Thượng thư bộ Công, kiêm bộ Lại và công việc ở Quốc tử giám.
-Năm 1840, ông làm Trấn Tây khâm sai đại thần (Trấn Tây là 1 phần lãnh thổ Campuchia ngày nay) cùng với tướng Trương Minh Giảng dẫn quân đi đánh đuổi quân Xiêm La và trấn áp các cuộc nổi dậy của người Chân Lạp.
-Năm 1842 (thời Thiệu Trị), quân Xiêm La lại sang xâm lấn vùng biên giới Châu Đốc-Hà Tiên, Lê Văn Đức liền được sung Tổng thống tiễu bộ quân vụ đại thần, cùng các tướng lo việc chống ngăn. Sau khi đánh đuổi quân xâm lược và tiểu trừ quân nổi dậy, ông được rút về Huế.
Tháng 11, 1842 , nhà vua lại cử ông làm Kinh lược đại thần để đi xem xét việc quân ở 6 tỉnh thuộc Nam Kỳ. Tuy bị bệnh, ông vẫn cố gắng lên đường, nhưng đến Quảng Nam thì mất ở tuổi 49.
Nhờ lập được nhiều quân công hiển hách, tên ông được khắc vào bia đá đặt ở Võ miếu Huế.
Thương tiếc, nhà vua gia tặng cho ông hàm Thái bảo. Năm Tự Đức thứ 10 (1857), Lê Văn Đức được thờ trong đền Hiền Lương.
Tuy là một võ tướng, nhưng Lê Văn Đức cũng là người thích làm thơ. Tác phẩm của ông có: Chu nguyên tạp vịnh; Bắc quan chế chí.
Nguồn tham khảo:
-Bến Tre trong lịch sử VN (1757-1945), Nguyễn Duy Oanh.
-Việt Nam sử lược, Trần Trọng Kim.
-Địa chí Bến Tre, NXB KHXH 2001 (ghi tên ông là Nguyễn Lê Đức, mất 1840 )
-Wikipedia