Võ Trường Toản
Người thầy khai sáng đạo học ở Nam Bộ
----
Xử sĩ Sùng Đức Võ Trường Toản (?-1792)
Là một nhà giáo Việt Nam nổi tiếng "học rộng, có tài thao lược và đức hạnh hơn người”.
Sanh trưởng tại Gia Định, nhưng Bến Tre là nơi ông gởi nắm xương tàn ấp ủ trong lòng đất.
Ông là một nhà giáo, học trò của ông có đến hàng trăm, nhiều người là các danh sĩ của miền Nam, sau này đều là đại thần của nhà Nguyễn, giúp chúa Nguyễn khôi phục giang sơn, có thể kể đến: Ngô Tùng Châu; Gia Định tam gia: Trịnh Hoài Đức; Lê Quang Định, Ngô Nhân Tịnh.
Ngoài ra cụ Nguyễn Đình Chiểu, Phan Thanh Giản là người chịu ảnh hưởng từ cụ Võ dù không phải là học trò của ông.
Cái học của cụ đạt tới mức tinh vi. Cụ Võ đã giảng với các môn đệ về sách Đại học, một tài liệu căn bản thuộc Tứ Thư. Cụ khuyên các học trò nên thấu triệt tư tưởng thánh hiền, đừng câu nệ học thuộc lòng từng chữ.
Sống trong lúc biến loạn Tây Sơn và Chúa Nguyễn, cụ sống bằng nghề dạy học và đem hết cả tài năng phục vụ môn sinh, cốt là đào tạo người tài, trụ cột cho tương lai đất nước.
Khi hay tin cụ mất, chúa Nguyễn cảm mến, ban từ hiệu là "Gia Ðịnh xử sĩ Sùng Đức Võ tiên sinh" để ghi vào mộ.
Cụ không tham gia chánh trị và làm quan. Cũng chính vì thế mà sự nghiệp của cụ không được hậu thế biết nhiều.
Về tiểu sử của ông đã được đại thần Phan Thanh Giản tóm tắt trong một bài văn bia bằng chữ Hán soạn năm Đinh Mão (1867), tạm dịch ra như sau:
Môn sinh của ông có nhiều người thành danh như: Trịnh Hoài Đức, Phạm Ngọc Uẩn, Lê Quang Định, Lê Bá Phẩm, Ngô Nhơn Tịnh. …Ngoài ra không kể hết được....Tiên sinh không ra làm quan, nên đại khái không thấy được sự nghiệp. Từ thuở tiên sinh lấy lối học nghĩa lý để giáo hóa, chẳng những đương thời đào tạo được nhiều bậc nhân tài, mà còn truyền thuật, giảng luận, trau dồi về sau…”
Hài cốt của nhà giáo Võ Trường Toản lúc đầu được chôn tại Gia Định. Khi quân Pháp chiếm ba tỉnh miền Đông, Phan Thanh Giản cùng nhiều sĩ phu tổ chức cải táng phần mộ cụ Võ về xã Bảo Thạnh (Ba Tri, Bến Tre) với ý nghĩa là không để mộ “cụ Hậu tổ” nằm trong vùng cai quản của quân xâm lược.
Nguồn: Kiến Hòa xưa & Nay; Wikipedia