IV. KHÔI PHỤC LẠI PHONG TRÀO KHÁNG CHIẾN, ĐẨY MẠNH CUỘC ĐẤU TRANH SAU LƯNG ĐỊCH, PHỐI HỢP VỚI CHIẾN TRƯỜNG CHÍNH TRONG CUỘC TIẾN CÔNG CHIẾN LƯỢC ĐÔNG XUÂN 1953 – 1954.
Tình hình mất đất, mất dân đặt ra trước quân và dân Bến Tre một nhiệm vụ cực kỳ gay gắt, phức tạp. Tỉnh ủy họp kiểm điểm, đánh giá tình hình, xác định nhiệm vụ cấp bách trước mắt là phải kịp thời ổn định tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và LLVT, kêu gọi toàn Đảng bộ, phải vững vàng trước tình hình khó khăn, vượt qua mọi thử thách, kiên quyết bám đất, bám dân, tổ chức lãnh đạo nhân dân chống trả địch, bẻ gãy mọi mưu đồ đen tối của chúng.
Cùng với việc tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng. Tỉnh ủy và UBKCHC đã chủ trương sắp xếp lại tổ chức cho phù hợp với hoàn cảnh mới, đưa những chi bộ rời xã trở về xã, điều động những cán bộ năng lực, có dũng khí của huyện, tỉnh về tăng cường cho các cấp xã. Một số tỉnh ủy viên xuống huyện trực tiếp làm bí thư huyện ủy, các huyện ủy viên trực tiếp phụ trách một số xã, bám chắc địa phương. Địa bàn một số huyện cũng được phân chia, sắp xếp lại: huyện Chợ Lách sáp nhập với huyện Mỏ Cày, một số xã của huyện An Hóa nhập với huyện Sóc Sãi. Ban cán sự thị xã được thành lập để chỉ đạo công tác khôi phục cơ sở và đấu tranh nội thị.
Các LLVT của huyện được phân tán thành những đội vũ trang tuyên truyền vừa tham gia xây dựng cơ sở quần chúng, vừa tổ chức đánh địch khi cần thiết. Các đại đội Vệ quốc đoàn được gấp rút củng cố, làm nhiệm vụ canh gác, phòng gian, bảo vệ căn cứ của tỉnh ở rừng Thạnh Phú, đồng thời hỗ trợ cho phong trào chiến tranh du kích ở các xã chung quanh căn cứ.
Như vậy là toàn bộ lực lượng cán bộ, đảng viên được triển khai trên mặt trận giành dân quyết liệt với địch bằng một quyết tâm sắt đá. Nhiều cán bộ phải len lỏi qua mạng lưới đồn bót địch, phải ăn bờ ngủ bụi, chịu đựng đói khát, muỗi mòng. Các đồng chí ở Châu Thành, Sóc Sãi, Mỏ Cày ban ngày sống trên ngọn dừa, đến đêm khuya mới xuống hoạt động. Các đồng chí ở Thạnh Phú, trên đường công tác gặp bão lớn, ghe bị chìm, phải ôm cột đáy ngâm mình trong nước mặn cả tuần lễ.
Riêng cuộc tiến quân trở về bám đất, bám dân lần này, Đảng bộ và chính quyền kháng chiến Bến Tre đã trả một giá khá đắt trên 600 cán bộ, đảng viên hy sinh. Đã có biết bao tấm gương kiên trung, bất khuất làm xúc động lòng người, và buộc chính kẻ thù phải khâm phục, kính nể.
Đồng chí Nguyễn Văn Dậu, Phó bí thư kiêm Chủ tịch huyện Sóc Sãi bị địch bắt đem mổ bụng. Trước khi chết, đồng chí đã kêu gọi đồng bào, đồng chí tiếp tục kháng chiến cho đến thắng lợi, dõng dạc hô to “Hồ Chủ tịch muôn năm”
Đồng chí Nguyễn Thanh Trà, Tỉnh ủy viên, đã từng vào tù ra khám nhiều lần. Khi bị sa vào tay giặc, đồng chí đã tự mổ bụng, lấy máu viết lên tường nhà giam khẩu hiệu “Hồ Chủ tịch muôn năm”, “Việt Nam độc lập muôn năm”. Địch phát hiện kịp, băng bó lại vết thương, nhưng đồng chí đã bứt băng, lôi ruột ra, ném vào mặt chúng rồi chết.
Đồng chí Sáu Lấn, Bí thư Chi bộ Sơn Hòa (Sóc Sãi) bị địch bao vây, từ dưới hầm bí mật, đã ném lựu đạn lên, nhưng lựu đạn không nổ, đồng chí đã dùng dao mổ bụng, nhét tài liệu mật, rồi chửi thẳng vào mặt những tên dở giọng dụ dỗ, chiêu hồi.
Đồng chí Hai Thép, Bí thư Chi bộ xã Phú Túc, nằm dưới hầm bí mật, bị địch phát hiện, đồng chí ném hai quả lựu đạn vào đội hình địch, diệt cả chục tên, còn trái cuối cùng thì dành cho mình. Cái chết anh hùng của Hai Thép làm cho binh sĩ ngụy phải run sợ, kính phục.
Một tiểu đội vũ trang tuyên truyền huyện Sóc Sãi, khi vượt sông bị tàu địch phát hiện, truy đuổi, dồn các đồng chí vào cồn Dơi. Các đồng chí đã chiến đấu một cách ngoan cường cho đến người cuối cùng, không chịu để cho giặc bắt.
Còn vô vàn tấm gương anh dũng tuyệt vời, vô vàn tấm lòng tận tụy với dân với nước của cán bộ và đảng viên, có tên hoặc không tên cùng sự hy sinh, cưu mang, bảo vệ Đảng, bảo vệ cách mạng vô bờ bến của quần chúng, bất chấp tù ngục, súng gươm... Tất cả hòa quyện vào nhau, tạo nên một sức mạnh vào niềm tin, để con người có đủ nghị lực vượt qua những giây phút gay go, đen tối nhất, tiến lên chiến thắng kẻ thù.
Chỉ trong vòng nửa năm sau đợt phát động, phong trào các nơi đã dần dần gượng dậy được, quần chúng đã đứng lên đấu tranh từ hình thức thấp đến hình thức cao, chống đàn áp, khủng bố, chống áp bức bóc lột, phá vỡ thế kìm kẹp của địch... Những tên ác ôn khét tiếng bị trừng trị, làm cho bọn theo đóm ăn tàn không dám hung hăng, nghênh ngang như trước.
Trong lúc tỉnh Bến Tre đang gặp những khó khăn to lớn thì TƯCMN, Khu ủy khu 8 tăng cường chỉ đạo, chi viện mọi mặt cho tỉnh nhằm nhanh chóng khôi phục lại phong trào. Đồng chí Phạm Thái Bường được cử về trực tiếp chỉ đạo phong trào. Nhiều cán bộ có năng lực cũng được điều về bổ sung cho cấp lãnh đạo tỉnh.
Ngày 7–1–1953, Tỉnh ủy họp mở rộng tại Thừa Đức (Bình Đại) để bàn việc quán triệt hơn những nhiệm vụ mới và phương châm công tác ở các vùng tạm bị chiếm theo chỉ thị của TƯĐCS. Hội nghị đã bầu Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh gồm 27 đồng chí, do đồng chí Đỗ Phát Quang làm Bí thư. Dưới ánh sáng của các nghị quyết hội nghị, phong trào Bến Tre bắt đầu có những bước chuyển mình mạnh mẽ.
Lúc này, trên chiến trường toàn quốc, địch bị thất bại trong chiến dịch Hòa Bình (đầu năm 1952), tiếp đến bị khốn đốn trong chiến dịch Tây Bắc (cuối năm 1952). Bộ chỉ huy Pháp buộc phải rút bớt quân từ các chiến trường để lập phòng tuyến giữ đồng bằng Bắc Bộ và tăng cường các binh đoàn cơ động để đối phó với chủ lực của ta ở chiến trường chính.
Ở Bến Tre, chúng đưa Nguyễn Thi Giỏi làm tỉnh trưởng thay Léon Leroy, rút bớt một số đồn bót lẻ để đề phòng sự tấn công của ta, đồng thời lập hai tiểu đoàn cơ động để đối phó với tình hình. Do đó, phía ta có thêm điều kiện thuận lợi để bung ra, mở rộng chỗ đứng chân, đẩy mạnh phong trào.
Bước sang năm 1953, nhiều chi bộ Đảng đã bám lại được xã, ấp, các đội vũ trang tuyên truyền, du kích đã đứng vững, hoạt động có hiệu quả ngay giữa lòng địch. Cơ sở chính trị trong nhân dân được mở rộng. Các huyện ủy đều đứng vững trên địa phương mình. Cuối năm 1953, cơ quan Tỉnh ủy trở lại căn cứ Thạnh Phú. Hệ thống liên lạc từ trên xuống dưới được củng cố, thông suốt. Quần chúng từng bước đã đứng lên đấu tranh bảo vệ những quyền lợi thiết thân của mình, chống lại chính sách bòn rút, vơ vét, khủng bố của địch. Đặc biệt, phong trào chống địch bắt lính đã dấy lên sôi nổi. Nhiều gia đình, vợ con binh sĩ ngụy kéo đến đồn bót địch đòi chồng, đòi con. Trong hàng ngũ binh sĩ ngụy có phong trào không chịu ra trận, không hành quân ra khỏi tỉnh v.v... Phong trào du kích chiến tranh phát triển đều khắp trong tỉnh. Âm mưu bình định của địch, về cơ bản, bị đánh bại.
Tháng 9–1953, BCHTƯĐCS họp hội nghị phân tích cụ thể cục diện chiến tranh Đông Dương, âm mưu của Pháp, Mỹ và ra nghị quyết có ý nghĩa lịch sử về nhiệm vụ quân sự Đông Xuân 1953–1954. Nghị quyết được quán triệt tới tận các cấp ủy và các cấp chỉ huy quân sự trong cả nước. Mọi việc chuẩn bị chiến trường cũng như công tác tổ chức lực lượng phục vụ các chiến dịch được triển khai mạnh mẽ.
Những đòn tiến công chiến lược của quân và dân ta ở chiến trường chính Bắc Bộ buộc địch phải tập trung lực cơ động để đối phó. Tình thế đó tạo thời cơ rất thuận lợi cho bộ đội ta tiêu diệt địch và cho chiến tranh du kích phát huy vai trò mạnh mẽ của nó ở vùng sau lưng địch. Nắm chắc thời cơ khi đại bộ phận quân chủ lực của địch ở Nam Bộ rút gần hết ra tăng cường cho chiến trường Bắc Bộ, Tây Nguyên và Trung Lào, bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích các tình (trong đó cổ Bến Tre) phối hợp chặt chẽ tiến công tiêu diệt địch ở khắp nơi. Công tác địch, ngụy vận cũng được đẩy mạnh làm cho phong trào đào, rã ngũ lan rộng trong bình lính Hòa hảo, Cao đài...
Tháng 11–1953, hội nghị Tỉnh ủy mở rộng được tổ chức tại rừng Thạnh Phú để bàn kế hoạch chấp hành quyết tâm chiến lược của Trung ương và đề ra kế hoạch Đông Xuân của tỉnh. Kế hoạch được chia làm hai đợt: trong đợt I bắt đầu vào đầu tháng 1–1954, xã Thạnh Phong (Thạnh Phú) được chọn làm điểm đột phá để phát động gia đình binh sĩ phối hợp với nhân dân, bộ đội, du kích tấn công vào đồn bót địch. Trong đợt này, đồn Cồn Rừng – một vị trí quan trọng khống chế khu vực Thạnh Phong – bị quần chúng bao vây. Hơn 5.000 đồng bào bị tập trung quanh đồn đã bung ra, trở về nhà cũ. Bị bao vây và triệt đường tiếp tế, các đồn thuộc vùng ven biển Thạnh Phú như Cồn Rừng, Khâu Băng, Cồn Điệp, Hồ Cỏ, Cái Cát phải rút chạy.
Chiến thắng Thạnh Phú giảng một đòn mạnh mẽ vào tinh thần binh lính ngụy, thôi thúc các huyện trong tỉnh thi đua lập công. Ngày 17–1–1954, quân và dân An Hóa đánh diệt các đồn Phước Thuận, Giồng Cà, Thừa Đức, và các bớt Lộc Thuận, Phú Lộc. Ở Ba Tri, dân quân du kích phối hợp cùng đồng bào (trong đó có gia đình binh sĩ ngụy) bao vây, bức rút một loạt 18 đồn bảo an ở các xã An Đức, Phú Ngãi, Vĩnh Hòa, An Hòa Tây, Tân Hào Đông. Ở Mỏ Cày, kết hợp với cơ sở địch, ngụy vận, du kích, đồng bào ta đã diệt hàng loạt đồn và lô cốt ở Định Thủy, Tân Thiềng, Phước Hiệp. Các đồn bót đóng dọc theo lộ 30, từ Cái Mơn đến Ba Vát bị san bằng.
Kết quả, sau 4 tháng hoạt động, quân dân Bến Tre đã diệt 53 đồn bót, giết 144 tên địch, bắt sống 234 tên, làm rã ngũ 1.350 tên, giải tán 30 hội tề xã, thu 300 súng các loại. Vùng tự do của tỉnh được mở thành một vệt dài ven biển từ Thạnh Phú, Ba Tri đến Bình Đại và khu vực nam, bắc Mỏ Cày.
Trong khi đó, ở mặt trận Điện Biên Phủ, sau 55 ngày đêm chiến đấu vô cùng gian khổ, 14 giờ ngày 7-5-1954, quân ta đã cắm ngọn cờ chiến thắng trên nóc hầm sở chỉ huy của tướng De Castries. Toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ bị tiêu diệt, 15.000 quân địch bị bắt sống. Được chiến thắng Điện Biên Phủ, Tây Nguyên, Trung và Hạ Lào cổ vũ, ngày 25-5-1954, Tỉnh ủy Bến Tre họp, quyết định phát động tấn công đợt II với quyết tâm tấn công và nổi dậy mạnh mẽ hơn, để cùng cả nước giành thắng lợi to lớn hơn nữa.
Thực hiện quyết tâm mới, trên chiến trường Bến Tre, những cuộc tiến công quân sự của bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, du kích kết hợp với nổi dậy của hàng vạn quần chúng diễn ra sôi nổi, đều khắp, buộc nhiều đồn bót địch phải hạ vũ khí, đầu hàng, hoặc rút chạy về co cụm lại ở thị xã và các thị trấn. Hàng loạt ban hội tề bị giải tán.
Ở Ba Tri, các đồn bót ở Mỹ Nhơn, An Hiệp, Tân Xuân phải cuốn chạy. Ở An Hóa, ta diệt một loạt đồn bót ở Bến Đình, Cầu Sắt, ngã ba Bà Khoai, Tân Phú Trung và bức rút các đồn Bình Mỹ, Thừa Đức. Ở Mỏ Cày, du kích ta khống chế lộ 30, bức hàng, bức rút một loạt đồn bót các xã đầu trên của huyện, mở ra một vùng giải phóng liên hoàn. Ở Châu Thành, được LLVT tỉnh hỗ trợ, nhân dân trong huyện đã bao vây, bức hàng, bức rút nhiều đồn bót ở Châu Hòa, Lương Quới, Nhơn Thạnh Thạnh Phú Đông. Ở Sóc Sãi, đồng bào và du kích nổi dậy, bao vây bức rút các đồn Tam Phước, Thành Triệu, Tường Đa. Ở thị xã, nhân dân nội thị và vùng ven tích cực làm công tác địch ngụy vận, kêu gọi được hàng trăm sĩ quan, binh lính ngụy bỏ ngũ về nhà.
Với ý chí quyết chiến, quyết thắng, quân và dân Bến Tre trong một thời gian ngắn đã vùng lên, đập vỡ từng mảng hệ thống đồn bót của địch, làm tan rã toàn bộ bộ máy ngụy quyền cơ sở ở nông thôn. Chính quyền cách mạng đã kiểm soát 3/4 đất đai trong tỉnh.
Trên vùng đất giải phóng, chính quyền các cấp tiến hành tịch thu ruộng đất của bọn phản động, cấp cho nông dân; xây dựng phòng thông tin, trạm y tế, nhà hộ sinh, trường học. Tiếng hát lời ca cách mạng lại bắt đầu vang lên trong thôn xóm. Bộ mặt của nông thôn do ta làm chủ đang bắt đầu có bước khởi sắc.
Sự phát triển nhanh chóng của tình hình Bến Tre cũng như các tỉnh khác ở Nam Bộ, đã gây một tác động mạnh mẽ đến phong trào đấu tranh của nhân dân thành phố Sài Gòn. Nhiều cuộc biểu tình lớn đòi lập lại hòa bình ở Đông Dương liên tiếp nổ ra. 352 nhà trí thức Sài Gòn đã ký tên vào một bản tuyên ngôn đòi quân Pháp ngừng cuộc chiến tranh xâm lược ở Đông Dương.
Ngày 20–7–1954, tại Genève (Thụy Sĩ) phái đoàn Chính phủ Pháp buộc phải ký kết với đoàn đại biểu Chính phủ VNDCCH do đồng chí Phạm Văn Đồng làm trưởng đoàn hiệp định đình chỉ chiến tranh lập lại hòa bình ở Đông Dương. Hiệp định công nhận độc lập, chủ quyền thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam cũng như Campuchia và Lào. Đối với Việt Nam, hiệp nghị quy định rõ ngày ngừng bắn, thời gian chuyển quân tập kết, giới tuyến quân sự tạm thời là vĩ tuyến 17. Hai miền Nam, Bắc sẽ tiến tới Tổng tuyển cử tự do để thống nhất nước nhà.
Như vậy, từ ngày 23–9-1945 đến 20-7-1954, nhân dân Bến Tre cùng với đồng bào cả nước tiến hành cuộc kháng chiến ròng rã 3.223 ngày đêm đầy gian khổ hy sinh, nhưng vô cùng anh dũng, tự hào. Ngày 22–7–1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Lời kêu gọi quân đội và nhân dân cả nước, đã khẳng định: “Trung, Nam, Bắc đều là bờ cõi của ta. Nước ta nhất định sẽ thống nhất, đồng bào cả nước nhất định giải phóng”.
Trong niềm vui chưa trọn vẹn, vâng theo lời Người, nhân dân Bến Tre cũng như toàn thể ng bào miền Nam tiễn đưa những con em của mình xuống tàu tập kết, đồng thời cũng chuẩn bị lực lượng, chuẩn bị điều kiện để cùng với những đồng bào, đồng chí ở lại bước vào cuộc đấu tranh mới, cuộc đấu tranh mà những dự cảm chính trị đã cho thấy trước rằng không kém phần gay go, gian khổ.
Địa chí Bến Tre