Post date: Aug 24, 2011 3:45:50 PM
Trái phiếu là một chứng nhận nghĩa vụ nợ của người phát hành phải trả cho người sở hữu trái phiếu đối với một khoản tiền cụ thể (mệnh giá của trái phiếu), trong một thời gian xác định và với một lợi tức quy định. Người phát hành có thể là doanh nghiệp (trái phiếu trong trường hợp này được gọi là trái phiếu doanh nghiệp), một tổ chức chính quyền như Kho bạc nhà nước (trong trường hợp này gọi là trái phiếu kho bạc), chính quyền (trong trường hợp này gọi là công trái hoặc trái phiếu chính phủ). Người mua trái phiếu, hay trái chủ, có thể là cá nhân hoặc doanh nghiệp hoặc chính phủ. Tên của trái chủ có thể được ghi trên trái phiếu (trường hợp này gọi là trái phiếu ghi danh) hoặc không được ghi (trái phiếu vô danh)
Trái chủ là người cho nhà phát hành vay và họ không chịu bất cứ trách nhiệm nào về kết quả sử dụng vốn vay của người vay. Nhà phát hành có nghĩa vụ phải thanh toán theo các cam kết nợ được xác định trong hợp đồng vay.
(from wiki)
Như vậy những thông tin cố định ghi trên trái phiếu bao gồm :
- Nhà phát hành
tổng số tiền gốc mà trái chủ được nhận cho tới hết thời hạn của trái phiếu.
- Mệnh giá :face value
- Lợi tức
- Ngày đáo hạn
- Trái chủ ( có hoặc không)
Đối với trái phiếu mệnh giá là số tiền gốc hoặc số tiền thu lại được khi đáo hạn. Tiền lãi được tính theo một số phần trăm nhất định của mệnh giá. Trước khi đáo hạn, giá trị thực tế của một trái phiếu có thể lớn hơn hoặc nhỏ hơn mệnh giá.Khi đáo hạn, giá trị thực tế của trái phiếu sẽ vừa đúng bằng mệnh giá.
Có 2 loại trái phiếu là : Coupon bond và discount bond.
Coupon bond : 1 số tiền lãi cố định sẽ được trả cho người sở hữu hàng năm cho đến năm đáo hạn thì người sở hữu sẽ nhận được số tiền bằng mệnh giá
Discount bond: còn được gọi là zero-coupon bond , được bán với giá thấp hơn mệnh giá và được mua lại bằng mệnh giá khi tới ngày đáo hạn.
Vấn đề đặt ra là nên mua loại trái phiếu nào, người ta thường sử dùng tỷ lệ hoàn vốn để đánh giá đầu tư cái nào có lợi hơn
Lưu ý rằng trái phiếu có thể được giao dịch (mua/bán) thấp hoặc cao hơn mệnh giá của nó.
Tuy nhiên gần đến ngày đáo hạn thì giá giao dịch này càng gần mệnh giá.
Vì giá giao dịch có thể cao hơn nên mới sinh ra chuyện tính tỷ suất lợi tức, lãi suất hoàn vốn,... để quyết định xem
mua trái phiếu là lời hay lỗ
Xem thêm về trái phiếu
Nguyên tắc đơn giản là nếu trái phiếu càng có khả năng sinh lời thì người ta càng mua và như vậy giá của trái phiếu càng tăng
->Lãi suất trái phiếu càng lớn thì giá trái phiếu càng tăng và ngược lại
1. Khi lãi suất trên thị trường bằng lãi suất trái phiếu thì giá trái phiếu bằng mệnh giá
của nó.
2. Khi lãi suất trên thị trường thấp hơn lãi suất trái phiếu thì giá trái phiếu sẽ cao hơn
mệnh giá của nó.
3. Khi lãi suất trên thị trường cao hơn lãi suất trái phiếu thì giá trái phiếu sẽ thấp hơn
mệnh giá của nó.
4. Lãi suất gia tăng làm cho giá trái phiếu giảm trong khi lãi suất giảm sẽ làm cho giá
trái phiếu gia tăng.
5. Thị giá trái phiếu tiến dần đến mệnh giá của nó khi thời gian tiến dần đến ngày đáo
hạn.
Lãi suất tăng thì giá trái phiếu lại giảm
Cần phải quan tâm giá trái phiếu được xác định như thế nào?
Giá trái phiếu là giá được xác định tại 1 thời điểm nào đó,và như vậy thì giá có thể thay đổi theo từng thời điểm khác nhau.Giá trị chính là thị giá ,giá mua hay giá bán
Sau đó cần xác định những nhân tố nào tham gia vào định giá trái phiếu.
Thông thường, có hai cách để giải thích mối quan hệ giữa lãi suất và giá trái phiếu. Cách thứ nhất, dựa trên nguyên lý định giá trái phiếu. Giá trái phiếu được tính bằng tổng giá trị hiện tại của các khoản tiền thanh toán cho người sở hữu trái phiếu. Để xác định được giá trái phiếu chúng ta phải chiết khấu toàn bộ dòng tiền sẽ thanh toán cho người sở hữu trái phiếu tại thời điểm định giá. Giả sử một trái phiếu được phát hành với thời gian đáo hạn là N năm và các khoản tiền được thanh toán bao gồm tiền lãi (R) định kỳ hàng năm và tiền gốc (FV) ở thời điểm đáo hạn. Với lãi suất bình quân thị trường là i, khi đó giá trị hiện tại của tổng dòng tiền thanh toán trong tương lai (hay giá của trái phiếu) được xác định như sau:
Từ công thức trên ta thấy khi lãi suất thị trường tăng lên thì giá trái phiếu sẽ giảm xuống.
Ví dụ, doanh nghiệp A phát hành trái phiếu mệnh giá 1.000 đồng với thơi hạn một năm, lãi suất trái phiếu là 10%/năm và trong điều kiện lãi suất thị trường là 11%/năm. Giá trái phiếu được tính như sau:
Như vậy, trái phiếu của doanh nghiệp A sẽ được bán tại thời điểm hiện tại với giá 991 đồng.
Nếu lãi suất thị trường tăng lên 12%/năm thì giá của trái phiếu được xác định lại như sau:
So với thời điểm lãi suất thị trường là 11%/năm thì giá trái phiếu của doanh nghiệp A đã giảm xuống còn 982 đồng.
Cách thứ hai để giải thích mối quan hệ giữa lãi suất và giá trái phiếu là dựa trên quan hệ cung – cầu trái phiếu trên thị trường. Trong khi lãi suất của trái phiếu
Hiện giá của trái phiếu là giá trị lý thuyết của trái phiếu,nếu trên thị trường người ta mua với giá cao hơn thì có thể bán
Như vậy thì khi lãi suất tăng ->giá giảm->tỷ suất sinh lời tăng và ngược lại
lãi suất giảm->giá tăng->tỷ suất sinh lời giảm
Những vấn đề xoay quanh trái phiếu :
Tại sao phải phát hành trái phiếu?
Không như cổ phiếu, phát hành trái phiếu không làm pha loãng lợi ích cổ đông, chủ động hơn về nguồn vốn với lãi suất thấp, do lãi suất trái phiếu thường xác định trước và là chi phí được khấu trừ thuế.
Có 2 loại trái phiếu doanh nghiệp: trái phiếu thông thường và trái phiếu chuyển đổi. Trái phiếu thông thường là công cụ vay nợ trả lãi thuần túy và lãi suất phản ánh đúng mức độ rủi ro. Còn trái phiếu chuyển đời thường có lãi suất thấp hơn, nhưng được ưu đãi chuyển đổi sang cổ phần công ty sau một thời gian nhất định.
So với vay ngân hàng, huy động vốn qua trái phiếu có một số ưu điểm như không cần có tài sản thế chấp và được chủ động sử dụng số tiền huy động mà không có sự giám sát của ngân hàng. Doanh nghiệp chỉ phải trả lãi theo kỳ hạn 6 tháng hoặc 1 năm và chỉ trả gốc vào cuối kỳ. Lãi suất trái phiếu không bị khống chế bởi trần lãi suất nên có tính hấp dẫn đối với nhà đầu tư.
Hiện nay, trái phiếu doanh nghiệp chủ yếu được phát hành riêng lẻ. Nhà đầu tư chủ yếu là ngân hàng và các công ty bảo hiểm có vốn lớn và yêu cầu mức lãi suất ổn định.
Ở các thị trường tài chính phát triển như Mỹ, thị trường trái phiếu doanh nghiệp có quy mô lớn và thanh khoản cao. Vai trò của các công ty đánh giá tín nhiệm như S&P, Moody, Fitch Ratings rất quan trọng đối với hoạt động phát hành, định giá và mua bán trái phiếu. Lãi suất trái phiếu khi phát hành (coupon rate) và lợi suất trái phiếu sau phát hành (yield) phụ thuộc rất lớn vào hạng trái phiếu. Thông thường trái phiếu chia làm 2 loại: loại để đầu tư (investment-grade) có mức xếp hạng BBB trở lên đối với chuẩn S&P và chuẩn Fitch Ratings và loại sinh lời cao (high-yield bond/junk bong) có mức xếp hạng BB trở xuống.
Trong khi đó, ở Việt Nam, thị trường trái phiếu công ty còn nhỏ và kém thanh khoản. Nguyên nhân là hệ thống tài chính doanh nghiệp quá dựa vào ngân hàng; thiếu các hoạt động đánh giá tín nhiệm đúng chuẩn và thường xuyên; hệ thống tài chính và giá trị đồng nội tệ thiếu ổn định, dẫn đến không có đường cong lãi suất làm chuẩn; thiếu vắng những nhà đầu tư tổ chức, đặc biệt là các quỹ hưu trí, quỹ tương hỗ, dẫn đến nhu cầu đầu tư và tính thanh khoản của trái phiếu doanh nghiệp trên thị trường thứ cấp kém.
Doanh nghiệp cần làm gì?
Thông thường, để phát hành trái phiếu, doanh nghiệp thường thuê một tổ chức tài chính như ngân hàng, công ty chứng khoán làm đơn vị tư vấn phát hành. Vai phát hành theo đúng thông lệ thị trường và đúng quy định của pháp luật, gồm:
1. Lập bản công bố thông tin về đợt phát hành trái phiếu, gồm: Phương án sử dụng tiền; rủi ro khi đầu tư; đánh giá tín nhiệm và phân tích tài chính doanh nghiệp; phân tích ngành; một số vấn đề về quản trị doanh nghiệp; kinh nghiệm và trình độ của ban lãnh đạo doanh nghiệp.
2. Gửi bản công bố thông tin và dựng sổ (book building) tới các nhà đầu tư tiềm năng để cung cấp thông tin và khảo sát nhu cầu, sự quan tâm của họ về quy mô vốn tham gia, mức lãi suất kỳ vọng, kỳ hạn, cấu trúc của trái phiếu... Nhà tư vấn sẽ đánh giá, tổng hợp nhu cầu của nhà đầu tư và trên cơ sở những điều kiện đã dự kiến, nhà phát hành sẽ chốt lại những điều khoản cuối cùng.
3. Thông báo tới các nhà đầu tư về các điêu khoản cuối cùng của trái phiếu.
4. Kết thúc thời hạn chào bán, nhà tư vấn sẽ tiếp nhận đơn đặt mua trái phiếu, tổng hợp và thông báo phân bổ số lượng trái phiếu.
Do hoạt động định mức tín nhiệm doanh nghiệp và trái phiếu chưa phổ biến, nên bên cạnh uy tín của doanh nghiệp phát hành, vai trò của tổ chức tư vấn phát hành rất quan trọng. Các doanh nghiệp tư nhân muốn phát hành trái phiếu thành công cần một ngân hàng bảo lãnh phát hành cam kết mua lại toàn bộ số trái phiếu không được đăng ký mua. Nhà đầu tư cũng rất quan tâm đến điều khoản ngân hàng bảo lãnh kiêm quản lý dòng tiền từ đợt phát hành trái phiếu và dòng tiền thu về từ các dự án của doanh nghiệp.
Đối với những doanh nghiệp chưa có tên tuổi và phát hành trái phiếu lần đầu, ngân hàng có thể kiêm thêm chức năng bảo lãnh thanh toán. Khi trái phiếu đến hạn thanh toán, nếu doanh nghiệp mất khả năng chi trả, ngân hàng sẽ đứng ra thanh toán tiền gốc và lãi cho nhà đầu tư. Tuy nhiên phí bảo lãnh phát hành và phí bảo lãnh thanh toán đôi khi lên tới vài phần trăm, đẩy chi phi phí huy động vốn lên cao.
Phát hành trái phiếu vốn được xem là cuộc chơi của các đại gia. Chẳng hạn, các tập đoàn nhà nước, nhờ niềm tin của nhà đầu tư vào Nhà nước, nên lãi suất trái phiếu thấp hơn và quy mô đợt phát hành lớn nên tính thanh khoản cao hơn.
Ví dụ, gần đây EVN phát hành trái phiếu kỳ hạn 5 năm, ngoài mục lãi suất 10,4%/năm cho năm đầu tiên, các năm tiếp theo trái chủ sẽ nhận được mức lãi suất thả nổi được tính bằng lãi suất cho vay kỳ hạn 12 tháng bình quân của 4 ngân hàng quốc doanh cộng với 2,75%/năm. Đối với EVN, thủ tục huy động vốn qua trái phiếu sẽ đơn giản và tiết kiệm hơn nhiều so với việc lập hồ sơ vay vốn cho từng dự án và chứng minh mục đích sử dụng vốn cho từng lần giải ngân về sau.
Trong khi đó, đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, khả năng phát hành thành công là rất thấp. Quy mô phát hành nhỏ làm giảm tính thanh khoản của trái phiếu, khiến nhà đầu tư ngại mua. Có những trường hợp trái phiếu được bán hết, nhưng đến 70% là do ngân hàng bảo lãnh phát hành mua. Và nếu phát hành thành công doanh nghiệp cũng phải trả chi phí cao hơn lãi vay ngân hàng. Điều này khiến một số người đặt câu hỏi: "Tại sao họ không vay ngân hàng?".
Có nhiều lý do, chẳng hạn không phải lúc nào doanh nghiệp cũng có sẵn tài sản thế chấp, hoặc nếu có thì tài sản không đủ đáp ứng số tiền cần cho dự án. Thêm vào đó, với lợi thế được chủ động giải ngân tiền phát hành trái phiếu và thanh toán mức lãi suất được xác định trước thì trái phiếu vẫn luôn là mong ước chưa thể thực hiện của các doanh nghiệp nhỏ.
Tham khảo thêm xaluan
Thị trường trái phiếu chịu tác động bởi:
a.Lãi suất thị trường
b.Lãi suất trái phiếu
c.Tính thanh khoản của trái phiếu
d.Tất cả đều đúng
CÔNG TY NƯỚC NGOÀI PHÁT HÀNH TRÁI PHIẾU NHƯ THẾ NÀO?
Anh chị ơi! Giúp em định khoản các nghiệp vụ sau nhé!
1/ Ngày 2/1/2006, cty phát hành 1000 Trái phiếu (TP), Mệnh giá: 1tr/TP. Đã thu tiền mặt. kỳ hạn 5năm. (đáo hạn là 31/12/2010),
Lãi suất 8,4%/năm, trả lãi hàng năm vào 31/12.
CPhí phát hành TP tính theo tỷ lệ 0.02% giá phát hành, đã thanh toán bằng chuyển khoản.
(cty phát hành TP để vay vốn dùng riêng cho hđ đầu tư XDCB công trình nhà xưởng. Lãi TP đủ điều kiện vốn hoá vào gtrị công trình xdựng.
2/ Nếu ngày 31/12/2006 chi tiền mặt thanh toán lãi cho các trái chủ, em phải hạch toán như thế nào?
(Em chưa biết phải hạch toán như thế nào cho chặt ch, giúp em nhe!)
Em rất cám ơn!
Phát hành TP theo mệnh giá hay có chiết khấu, phụ trội. Nếu ko có các khoản đó thì hạch toán:
->
N111/C343 1.000*1.000.000.
Cp phát hành: N242/C112.
Cuối năm 2006 phân bổ: N241/C242
Thanh toán lãi năm 2006: N241/c111,112
Xem thêm về định giá trái phiếu , định giá chứng khoán
Xem thêm ví dụ