Trên tường, lẫn trong nhiều bức hình rất đẹp được chụp từ một ống kính chuyên nghiệp là tấm hình của chiếc ghe mong manh, nhỏ bé, bồng bềnh trên đại dương. Trên khoang ghe, các thuyền nhân Việt Nam (những boat people đã đánh động lương tâm thế giới vào những năm 70s và 80s) mặt mày ngơ ngác mệt mỏi nhưng mắt sáng lên hy vọng. Đó là món quà tặng cho BS HQM từ một thuyền nhân cùng tàu vượt biển năm xưa.
*
Ảnh con thuyền vượt biển do vị thuyền trưởng một tàu buôn của Ý chụp trước khi đón mọi người lên tàu. Bs. Vinh đứng ở mũi thuyền, tay cầm một thùng rỗng để xin nước từ con tàu gặp giữa Thái Bình Dương JUN 1979.
Mọi người trên ghe gọi em là "công dân của đại dương" vì em sinh ra giữa biển trời mênh mông, không thuộc hải phận của quốc gia nào, vào một đêm trời chuyển mưa, trời không trăng sao, lâu lâu có những tia chớp lóe lên soi sáng đêm đen.
Chiếc ghe rời cửa biển Long Hải lúc nửa đêm về sáng để tránh công an biên phòng, đưa gần bảy mươi thuyền nhân trốn khỏi quê cha đất tổ, đem sinh mạng mình đánh cuộc với định mệnh để tìm tự do và tương lai. Trong số đó có hai vợ chồng trẻ, người vợ ốm yếu mảnh mai, lại mang thai lần đầu, mặc hai ba lớp áo quần nên hinh như không ai biết chị có thai đã bảy tháng, ngoài anh chồng trẻ cũng mảnh khảnh như chị.
Mà nếu có biết cũng chẳng ai còn tâm trí nào để nghĩ đến chuyện người khác khi trong lòng mình cũng "ngổn ngang trăm mối". mà mối lo lớn nhất là có thể bị bắt lại, bị nhục hình, bị tù tội trong khi mình không có tội gì hết, chỉ bỏ xứ ra đi, bỏ ông bà cha mẹ, bỏ tất cả ra đi vì muốn có tự do.
Vừa đặt chân lên sàn ghe, tất cả mọi người đều được đưa xuống lòng ghe để bảo đảm an toàn. Nếu có bất cứ ghe tàu nào đi ngang, nhìn vào người ta chỉ thấy trên khoang ghe có vài ngư phủ đi thả lưới ban đêm để có được một ít cá tôm tươi cho vợ hoặc mẹ mang ra bán ở buổi chợ sáng ngày mai. Nhất là vào ban đêm, ánh đèn bão tù mù, vàng úa giúp những người đang trốn chạy khỏi quê hương che được nét ưu tư lo lắng.
Phía dưới lòng tàu, thông thường chỉ để lưới, xăng dầu, thức ăn của ngư phủ, mấy thùng nước ngọt, và mấy thùng đựng cá tôm lưới được vào những hôm ra khơi nhiều may mắn. Vậy mà bây giờ gần bảy mươi con người ngồi chen chúc, không khí đã thiếu lại càng ngột ngạt hơn khi rất nhiều người bị say sóng ói mửa ngay trên sàn tàu, trên áo quần của mình hay của người ngồi bên cạnh. Không ai nói với ai tiếng nào. Khi ghe chưa ra đến hải phận quốc tế, người ta chưa sợ chết vì đại dương bao la, vì thiếu nước ngọt, thiếu thức ăn, mà đích đến thì còn ở xa mù tít tắp, nhưng nỗi sợ bị công an biên phòng bắt được thì tù tội, nhục hình cũng kinh hoàng như nỗi chết. Nỗi sợ đó lớn quá, bao trùm lên mọi thứ, át đi sự ngột ngạt trong một hầm ghe quá tải, át đi mùi của mọi thứ trong bụng chưa kịp tiêu hóa chạy ngược lên miệng chạy ra ngoài. Khi thức ăn đã ra hết, cả đến mật xanh cũng chạy ra, người ta mệt nhoài, không còn sức để sợ bị bắt lại, không còn sức để cảm nhận được không khí ngột ngạt, nặng mùi chung quanh mình. Ở một góc ghe, người đàn bà trẻ đang mang thai lại tỉnh táo hơn mọi người, hơn cả ông chồng cũng vật vờ say sóng, nôn mửa như hầu hết mọi người trên ghe. Lòng ghe tối đen, không ánh sáng, không cả tiếng động, thời gian tưởng như ngưng lại. Lâu lâu có một chút ánh sáng xanh yếu ớt từ cái đồng hồ đeo tay có dạ quang của ai đó. Đêm dài và sâu hơn với những người đang trốn chạy khỏi quê hương.
Vào đêm thứ nhì của cuộc trốn chạy bằng đường biển, người đàn bà đang mang thai chợt thấy đau nhói ở bụng. Đây là con đầu lòng, chị không có kinh nghiệm về chuyện sinh đẻ. Trong bóng tối đặc quánh trong lòng chiếc ghe mong manh chật như nêm, một tay nắm tay chồng, một tay chị chị nhẩm tính trên những ngón tay xem mình đã có thai bao nhiêu tháng.
*
Họ lấy nhau tháng chín năm ngoái, sau mười lăm tháng quen nhau ở vùng kinh tế mới Đồng Bò, ngoại ô Nha Trang. Chị cố quay lại khúc phim tình yêu lãng mạn của anh chị để quên đi nỗi đau âm ỉ trong bụng. Tình yêu trên vùng đất khô cằn, -ngay cả hoa dại cũng không mọc nổi, không trồng được gì hết ngoài khoai mì, - nhưng rất chân thành, sâu đậm vì đó là tình đầu của cả anh và chị. Họ lấy nhau, không có đám cưới bình thường, chỉ có một lễ ra mắt hai bên họ hàng (cũng chỉ lưa thưa mấy người đàn bà vì đàn ông dạo đó hầu hết đã ở trong lao tù cải tạo vì "tội ngụy quân ngụy quyền") bằng một mâm cơm... trắng (không bị độn khoai sắn như bữa ăn thuờng ngày của người dân kinh tế mới) và vài món ngon như nem, chả được gởi mua từ chợ Đầm ở Nha Trang. Hôn thú cũng chưa làm vì "ủy ban nhân dân xã kinh tế mới" vừa thành hình, chưa có con dấu. Về nơi ở cũ thì bị từ chối vì "hộ khầu đã bị cắt". Nhưng gia đình vẫn cho họ lấy nhau, vì “phải nương nhau mà sống, không phải ở cái vùng kinh tế mới hoang vu này, mà sau này, đi đâu cũng nương tựa vào nhau….”. Mẹ chị đã căn dặn anh chị như vậy ở một lễ cưới dã chiến, không có khăn áo, không có make up, và không có cả họ hàng, quan khách. Mấy miếng chả heo màu trắng - chắc là tỉ lệ thịt và bột ngang nhau -, mấy miếng nem hồng nhạt dành cho hai đứa em chưa đến tuổi đi học, lần đầu tiên trong đời được nếm mùi nem chả. Anh chị nhường nem chả cho các em, ăn cơm với canh rau muống, sau khi đã ăn mấy lát gừng mỏng chấm muối như phong tục ngàn xưa "gừng cay muối mặn xin đừng bỏ nhau”.
Hơn nửa năm sau ngày cưới, một lần về Nha Trang mua hạt giống, anh gặp một người lính hải quân làm dưới quyền ba anh ngày xưa. Thương anh cựu sinh viên Khoa học thư sinh kính trắng phải cày sâu cuốc bẩm nuôi mẹ, nuôi em khi ba ở trong tù cải tạo, người lính hải quân sắp lái một chuyến tàu vượt biển, được chủ ghe cho mang theo cả gia đình, cho anh và chị đi theo.
*
Bụng chị vẫn đau, chị ước gì mình bị say sóng ngủ vùi, hoặc lã đi vì mệt như anh, như tất cả mọi người trong lòng ghe. Nhưng cơn đau vẫn chẳng chịu đi, lúc âm ỉ, lúc nhói lên, chị xanh mặt, vả mồ hôi chịu đựng, tự nhủ trong đầu:
- Không sao, đau một chút rồi sẽ hết. Mình chưa đẻ đâu, đến hôm nay nhiều lắm là 29 tuần, ít nhất cũng cả tháng nữa mới sinh.
Hết tự bảo mình, chị cúi xuống rờ tay lên bụng, thì thầm trong bóng tối:
- Con ơi, nằm yên nha, để đến trại tỵ nạn rồi hãy ra nghe con, an toàn hơn cho cả con và mẹ.
Cơn đau chỉ lắng xuống một vài giây, rồi lại nhói lên quặn đau mỗi lúc một nhiều hơn. Chịu không nổi, chị đành lay vai anh:
- Anh ơi anh, chắc em đang chuyển bụng đẻ.
Đang vật vờ say sóng, nghe vợ sắp sinh, anh tỉnh hẳn, mở mắt nhìn quanh, rồi hỏi chung quanh:
- Có ai biết đở đẻ không? Xin giúp vợ tôi.
Câu hỏi làm mọi người trong cái khoang ghe tối đen, ngột ngạt tỉnh hẳn lên. Giữa lúc mọi người đang vượt đại dương, có một phụ nữ trẻ sắp "vượt cạn". Có ai đó thò đầu lên khỏi hầm ghe, hỏi xin một ánh đèn cho sản phụ.
May là ông chủ ghe cũng thuộc loại người nhân từ, và ghe đã ra đến hải phận quốc tế, nên chị được đưa lên khoang ghe. Anh cũng được đi theo cùng chị. Họ tỉnh hẳn ra khi ra khỏi hầm ghe, được hít thở không khí trong lành của đại dương, cũng là không khí của tự do mặc dù đích đến còn ở xa, xa lắm. Chị thấy khỏe hơn mặc dù cơn đau vẫn không dứt, quặn lên từng cơn.
*
Vinh cũng được rời khỏi hầm ghe, lên sàn tàu cùng với anh chị vì Vinh là bác sĩ duy nhất trên chuyến ghe vượt biển đêm đó. Trời tối đen, Vinh cũng không biết lúc đó là mấy giờ, cái đồng hồ đeo tay đã rớt mất từ lúc nào. Dù đã từng làm việc đở đẻ từ cuối năm thứ tư y khoa trong ca thực tập đầu tiên ở bệnh viện Từ Dũ. Và từ đó đến giờ, dù không chuyên về sản khoa, Vinh cũng đã có dịp trực tiếp hoặc gián tiếp làm việc trong những trường hợp sinh thường, cũng như sinh khó, phải xoay đầu hài nhi từ lúc còn nằm trong bụng mẹ, phải mổ để đem con ra khỏi bụng mẹ. Nhưng lần này giữa đại dương, trời tối đen, trên sàn tàu bằng ván lồi lõm còn mùi tanh của tôm cá, chỉ có một ngọn đèn bão tù mù mà người tài công tốt bụng đã cho mượn, không có thuốc khử trùng, không có alcohols, cũng chẳng có bông băng, hay bất kỳ một dụng cụ y khoa nào. Sản phụ lại sinh lần đầu, và Vinh không có một chi tiết nào về hồ sơ bệnh lý của chị. Chưa bao giờ Vinh tưởng tượng mình phải làm công việc tưởng như đơn giản nhưng cả hai sinh mạng đều đặt trong tay Vinh trong một đêm trời tối đen trên sàn một chiếc ghe vượt biển. Mọi thứ đều làm bằng tay, không có cả găng tay, phương tiện còn hạn chế hơn dụng cụ thô sơ của một cô mụ đỡ đẻ ở nhà quê từ nhiều thập niên trước Dưới ánh đèn bão tù mù, phải mất gần một tiếng, từ việc xoay đầu em bé đến việc cắt cuốn rốn, em bé sinh ra đỏ hỏn, sớm hơn kỳ hạn bình thường một tháng nhưng khỏe mạnh. May mắn là sản phụ dù xanh xao, yếu ớt nhưng rất can trường, đã dùng hết sức bình sinh để đẩy được em bé ra ngoài từ cửa tử cung hẹp của một người sinh con lần đầu. Gió của đại dương nhanh chóng làm khô những giọt mồ hôi đầm đìa trên mặt của Vinh, của anh, và nhất là của chị, sản phụ can đảm nhất nhì thế giới, đã vừa vượt biển, vừa "vượt cạn" lần đầu, không có thuốc tê, không có thuốc mê, không có cả bông băng, nhưng chị không hề rên la, chỉ cắn chặt môi đến rướm máu chịu đựng. Nếu chị không tự đẩy em bé ra được, Vinh cũng không biết mình phải làm gì trong tình trạng không thuốc men, không dụng cụ. Mãi về sau, sau này, sau nhiều năm hành nghề Y khoa ở Mỹ, có dịp chẩn đoán, điều trị cho rất nhiều bịnh nhân thuộc nhiều chủng tộc, nhiều lứa tuổi khác nhau, chị vẫn là bệnh nhân can đảm nhất của Vinh.
Anh đứng bên cạnh là một chỗ dựa tinh thần cho chị, và một phụ tá đắc lực cho Vinh. Người chồng sắp được làm cha, lại vô tình trở thành y tá bất đắc dĩ phụ việc cho Vinh trong một ca đỡ đẻ rất khác thường trên một chuyến tàu vượt biển. Em bé gái mới ra đời được tắm bằng nước biển Đông, được cắt nhau bằng đầu móng tay cái và móng tay trỏ của Vinh. Những đầu móng tay Vinh bắt đầu để dài từ lúc bắt đầu chơi guitar với sự hướng dẫn của một ông thầy dạy môn Nhạc từ những năm đầu Trung học, không ngờ lại được dùng rất có hiệu quả trong trường hợp hy hữu giữa biển khơi. Không có alcohol để tẩy trùng, Vinh đến bên mạn thuyền, múc nước biển lên rửa tay. Muối của đại dương cũng ít nhiều sát trùng những đầu ngón tay của Vinh trước khi Vinh cắt cuốn rún của em bé sơ sinh.
Em được bọc bằng hai lớp áo, lớp trong là cái áo thun của cha, lớp ngoài là cái áo khoác của mẹ. Tiếng khóc đầu tiên của em, của mầm sống mới đem lại nụ cười cho Vinh, cho anh và chị, và hy vọng cho một đời sống mới tự do, tốt đẹp hơn cho mọi người trên ghe. Em ra đời an lành giữa biển Đông, sớm hơn thời hạn bình thường (9 tháng 10 ngày) gần một tháng trong một hoàn cảnh rất đặc biệt. Và dĩ nhiên không có cân, không có thước để biết trọng lượng, và chiều cao của em.
Trong niềm vui vừa hoàn thành một ca đở đẻ có một không hai trong đời, Vinh trao em bé cho sản phụ, dùng nước biển để rửa tay. Giữa biển trời mênh mông, không có xà bông, không có alcohol sát trùng, không có cả nước thường để rửa tay. Vinh đến bên thành ghe, một tay bám chặt vào thành ghe, tay kia múc nước biền bằng một cái thùng nylon để rửa tay, và rửa em bé cùng sàn ghe. Sau vài phút vui mừng cạnh vợ con với niềm vui của một người lần đầu làm cha, người chồng trẻ vừa rối rít cảm ơn, vừa giúp Vinh dọn rửa sàn ghe, nơi một con người bé bỏng vừa chào đời trong đêm tối giữa biển trời bao la. Cũng như cha mẹ không được làm hôn thú ở một vùng kinh tế mới, em cũng không được làm khai sinh giữa biển trời, trên một chiếc ghe tỵ nạn. Em được cha mẹ gọi là "bé Biển".
Trời sáng dần, mọi người tỉnh táo hơn, lạc quan hơn vì ánh sáng mặt trời luôn là người bạn tốt của những con tàu đang lênh đênh trên đại dương. Họ còn vui mừng hơn vì có thêm một mầm sống mới vừa chào đời bằng sự can đảm của người mẹ, bằng sự tận tình của một ông bác sĩ trẻ cùng là đồng hành trên chuyến vượt biển tìm tự do của họ.
Những ngày sau đó, dù vẫn phải ăn uống dè chừng vì không biết khi nào mới đến được đất liền, Vinh vẫn được đối xử tử tế hơn, được ông bà chủ ghe mời lên ngồi trên khoan tàu, được hít thở không khí trong lành của đại dương. Vinh cũng được phân phát thức ăn theo tiêu chuẩn đặc biệt, nhưng Vinh cũng chỉ ăn như khẩu phần của mọi người trên ghe, nhường phần đặc biệt đó cho người mẹ mới sinh ốm yếu mảnh mai, cần ăn nhiều để còn có sữa nuôi con sơ sinh.
Những chuyện bình thường đó được rỉ tai bởi những người còn tỉnh táo, khỏe mạnh trên ghe, và như một vết dầu loang, người ta đối xử tốt đẹp với nhau hơn. Một vài người lớn tuổi được những người trẻ hơn nhường phần nước uống hiếm hoi được phát hai lần mỗi ngày. Các em bé được ăn thêm vài muỗng cơm từ những người lớn trên tàu. Chuyện tưởng như đơn giản trên đất liền trong hoàn cảnh bình thường, nhưng là cả một niềm an ủi, một niềm tin khi con người đang trốn chạy khỏi quê hương, đang lênh đênh trên đại dương, không biết lúc nào mới đến bờ, đến bến.
*
Bốn ngày sau, chiếc thuyền mong manh của những thuyền nhân Việt Nam chạy trốn chế độ Cộng sản may mắn được một con tàu buôn của Ý trông thấy. Họ đến gần và cho tất cả người tỵ nạn lên tàu của họ, cho ăn uống. Họ đặc biệt cho bé Biển nhiều món quà quý, trong đó có một cái mỏ neo nhỏ như một lóng tay, - làm bằng vàng, biểu tượng của chiếc thương thuyền -, sau khi nghe kể em được sỉnh ra vài ngày trước đó trên sàn con thuyền mong manh không có một dụng cụ thuốc men nào, ngoài sự can đảm của mẹ em, và sự tận tình của một bác sĩ trẻ được đào tạo ở Đại học Y khoa Saigon trước năm 1975. Như luật hàng hải quốc tế vì sinh ra ở hải phận quốc tế nên bé Biển có quốc tịch Ý, chiếc tàu đầu tiên có mang cờ một quốc gia em được mang lên.
Trước khi đưa từng thuyền nhân lên tàu lớn, họ có ghi lại hình ảnh của chiếc ghe mong manh và những thuyền nhân mặt mày hốc hác nhưng ánh mắt rạng rỡ vì biết chắc chắn mình sẽ đến được bến bờ tự do. Ông thuyền trưởng đích thân ra trước mũi tàu chụp hình. Bên kia, bác sĩ Vinh được những người trong ghe cử ra nói chuyện với đại diện của tàu Ý. Vinh cũng đứng trước mũi của chiếc ghe tỵ nạn, bên cạnh chiếc tàu buôn như một em bé gầy yếu đứng trước một người khổng lồ. Tấm hình đó không một người tỵ nạn nào có dịp trông thấy. Ngoài một số người muốn được định cư ờ Ý, tất cả thuyền nhân còn lại được đưa đến trại tỵ nạn và được đi định cư ở nhiều nước khác nhau.
Ông thuyền trưởng nghe Vinh kể chuyện đỡ đẻ rất hiếm hoi đã giơ cả hai tay lên trời:
- Tôi cảm phục lòng can đảm của sản phụ, tôi cảm phục sự bình tĩnh và tận tình của bác sĩ. Tôi cảm phục lòng quả cảm của tất cả các bạn. Thượng Đế đã phù hộ các bạn.
Ông ta còn nói nhiều điều nữa, nhưng Vinh chỉ nhớ câu đó, và nhớ nụ cười hiền từ nhân hậu của người thuyền trưởng người Ý da trắng. tóc đen.
Vinh đến Mỹ vào cuối năm 1979, đi học lại một số lớp để có thể thi lấy bằng Medical Doctor ở Mỹ và thi lấy giấy phép hành nghề. Kiến thức của những năm Y khoa Saigon giúp Vinh rút ngắn được hơn nửa đường học trình của một Bác sĩ chuyên khoa ở Mỹ. Cứ lấy các "equivalent test" của từng giai đoạn, đậu được mỗi bài test là khỏi phải học ít nhất là hai học kỳ (tương đương một năm). Cứ từ dễ đến khó, Vinh lần lượt đậu từng bài thi và không phải học lại, chỉ phải đi thực tập nội trú (Internship) trong một bệnh viện ở New York trước khi được cấp bằng hành nghề. Lúc đó còn trẻ, chưa lập gia đình, dù không phải học lại 5 năm đầu của chương trình Y khoa ở Mỹ, Vinh vẫn chăm chỉ đọc sách và học thêm một lớp căn bản về "Business Law".
Mỗi tuần làm việc từ bốn đến năm mươi giờ ở bệnh viện từ phòng cấp cứu đến các phòng bệnh nội trú, Vinh gặp bệnh nhân đủ mọi lứa tuổi, mọi màu da. Có người suốt ngày rên rỉ, có người chỉ nhăn mặt khi thiếu thuốc giảm đau, có người luôn cố giữ nụ cười lạc quan để thêm tinh thấn chiến đấu với bệnh tật. Không có ai can đảm như người sản phụ thuyền nhân giữa đại dương năm nào, kể cả những người sinh con giữa một bệnh viện đầy đủ thuốc men, dụng cụ, y tá, bác sĩ, đã được chích thuốc giảm đau mà vẫn rên la.
Xong một năm nội trú ở New York, những ngày đầu chính thức hành nghề y khoa trong một bệnh viện ở Chicago, những khuôn mặt bệnh nhân đủ mọi cá tính đến rồi đi trong từng ngày làm việc của Vinh, vẫn chưa có ai vượt qua được sự can đảm chịu đựng của người sản phụ trên chiếc ghe mong manh vượt biển ngày trước. Giữa những tiện nghi dành cho một bác sĩ ở Mỹ, thỉnh thoảng Vinh vẫn nhớ đến nước Thái bình dương đã rửa tay cho mình và tắm cho em bé sinh giữa đại dương. Vị mặn của nước biển có thể sát trùng một cách tương đối, đã giúp một em bé thuyền nhân chào đời an toàn, khỏe mạnh trên sàn ghe giữa biển trời mênh mông.
*
Họp mặt truyền thống chs Ngô Quyền lần thứ XIII - JUL 2014 ở Milpitas, California. Nhân vật chính: BS Huỳnh Quan Minh– cựu học sinh NQ K6- trước micro. Tác giả NTDH áo dài trắng, đứng giữa hai đàn anh Ngô Quyền.
Rồi Vinh lập gia đình, dọn về San Jose ở California với khí hậu ven biển ấm hơn giống Việt Nam hơn, và để một lúc nào đó những đứa con chào đời sẽ có nhiều cơ hội học tiếng Việt hơn. Lúc đó là đầu thập niên 80s, cộng đồng Việt Nam ở Mỹ chưa lớn mạnh, những lần hiếm hoi gặp bệnh nhân người Việt ở bệnh viện Kaiser, họ cứ hỏi Vinh có khám thêm ở nhà ngoài giờ làm việc để họ đến nhờ giúp khi bệnh hoạn. Một, hai, năm, bảy rồi cả chục lần được yêu cầu như vậy, Vinh quyết định xin thôi việc ở bệnh viện, mở phòng khám tư, tự do hơn.
Lần đầu tiên mở phòng khám tư, lại là phòng khám ở Mỹ, một nơi mà nguyên tắc, và luật pháp rất nghiêm nhặt,Vinh phải mò mẩm từng bước để xây dựng phòng khám bệnh của mình. Thời đó, đầu thập niên 80s, cộng đổng tỵ nạn của người Việt còn non trẻ, bệnh nhân của Vinh thuộc đủ mọi chủng tộc, từ những người bản xứ hay đến phòng mạch của ông bác sĩ trẻ còn giữ nguyên tính kính trọng người lớn tuổi của người Việt Nam, đến những người di dân gốc Nga, gốc Tàu, gốc Ý, gốc Mễ... Và dĩ nhiên cũng có những bệnh nhân Việt Nam chịu khó lái xe vài chục dặm để được một bác sĩ đồng hương chăm sóc.
Cũng chính nơi đây, Vinh gặp lại nhiều bạn học đã mất liên lạc từ ngày xong tú tài, mỗi người mỗi ngả.
Phúc và Lan di tản từ tháng 4 năm 1975, vẫn không thay đổi nhiều so với ngày còn ở Trung học, tương đối thành công, vẫn mang theo cả một thời mới lớn ở Việt Nam có những lý tưởng màu hồng dù lâu lâu vẫn nghe tiếng súng vọng về từ một chiến trường nào đó rất gần thành phố.
Xuân đi từ trường Ngô Quyền vào trường Võ bị, vừa cởi áo trắng học trò, khoác ngay áo treillis của lính, không có thì giờ mặc áo dân sự giữa một đất nước chiến tranh. Nước mất, Xuân phải vào "trại cải tạo", mặc áo màu sậm, xám xịt như đời “tù... không có tội”. Ra khỏi nhà tù nhỏ, Xuân về nhà tù lớn chỉ vài tháng rồi vượt biển, và chịu khó cắp sách đi học lại đến ngày thành kỹ sư ở thung lũng điện tử của miền Bắc California.
Tuấn rời Việt Nam qua Nhật du học từ năm mười tám. Học vừa xong, thì nước mất, không còn nhà, không còn quê hương để quay về. Một sáng đầu tháng 5 năm 1975, mở mắt dậy, bỗng dưng thành một người "vô gia đình, vô tổ quốc”, Tuấn quyết định đi xa hơn nữa khi Mỹ cấp free pass vào Hoa Kỳ cho các sinh viên VN đang du học ở các nước tự do trên thế giới vào thời điểm tháng 4 năm 1975. Tuấn ổn định đời sống ở Mỹ từ năm 1976. Phiêu bạt từ Việt Nam qua Nhật, rồi Mỹ, ở đâu người bạn thân của Vinh cũng mang theo hình ảnh hiền hòa, thâm trầm như nhân vật cùng tên trong "Tuấn chàng trai nước Việt".
Tấn đậu tú tài, vào Không quân, được đi tu nghiệp ở Mỹ, về nước chưa kịp đóng góp nhiều cho đất nước thì "chim gãy cánh mây ngừng trôi ", Tấn vô tù vì vận nước, rồi trở về làm đủ mọi nghề để sống đến khi được qua Mỹ theo diện HO, là người đến đất nước tự do muộn màng nhất trong lớp.
Cả một cái lớp tứ hai ở Ngô Quyền xưa lưu lạc khắp nơi trên thế giới, gần một phần tư lớp hội tụ ở San Jose, mỗi lần gặp nhau vui hơn Tết, chuyện trò râm ran, tiếng cười vang lên như ngày xưa còn ở tuổi ăn chưa no, lo chưa tới ở quê nhà.
Nhưng vui nhất là lần Vinh gặp thầy Hợp, thầy dạy Toán năm đệ tam ở quê nhà. Thầy định cư ở Mỹ vảo thập niên 90s, lúc đó cộng đồng Việt Nam ở vùng thung lũng điện tử San Jose đã quần tụ khá đông. Chân ướt chân ráo ở quê người, chưa có xe, từ nhà, Thầy đi hai chuyến xe bus đến khu vực thuơng mại đông đúc nhất của người Việt ờ San Jose, lấy một tờ báo quảng cáo để tìm một ông bác sĩ đồng hương ở quê người. Và thầy tìm ra cậu học trò thông minh, hiền lành năm xưa đang hành nghề "lương y" ở một con đường yên tĩnh gần downtown. Trong mục quảng cáo của một tờ báo VN, trong danh sách các Bác sĩ Việt Nam ở San Jose, thầy Hợp tìm thấy tên của cậu học trò thông minh, hiền lành ở cù lao Phố, Biên Hòa ngày xưa. Bao nhiêu năm đứng trên bục giảng ở nhiều trường Trung học lớn ngày xưa, như một người lái đò đưa hàng ngàn người khách qua sông; có một vài khuôn mặt, vài cái tên Thầy không hề quên.
Gần như chắc chắn đó lả học trò cũ của mình ngày xưa, nhưng muốn dành cho cho Vinh một bất ngờ, thầy Hợp vẫn gọi điện thoại lấy hẹn, đến văn phòng đúng giờ, lảm việc với mấy cô thư ký, điền hồ sơ cho một bệnh nhân mới, rồi kiên nhẫn ngồi đợi như bao nhiêu người khác.
Gần cuối buổi làm việc, Vinh được cô thư ký chuyển vào hồ sơ của bệnh nhân kế tiếp. Nhìn cái folder màu vàng nhạt còn mới toanh của một bệnh nhân mới, Vinh liếc qua tên bệnh nhân, và độ tuổi, cùng giới tính. Tên viết theo lối Mỹ, first name, last name, initial middle name, nên Vinh không hề nghĩ đó là thầy dạy Toán của mình thời trung học.
Vinh rời phỏng làm việc của mình, đẩy cửa vào phòng có bệnh nhân, và thả rơi cái folder xuống nền nhà, không tin vào mắt mình. Cứ như một giấc mơ, thẩy dạy Toán Nguyễn Thất Hợp của năm đệ tam đang ngồi cạnh bàn khám bệnh ở San Jose, California, chứ không phải cạnh bàn giáo sư của trường Ngô Quyền Biên Hòa như hai mươi năm trước. Thầy vẫn vậy, chỉ già đi theo năm tháng (như người Mỹ vẫn gọi là aging process) chứ không thay đổi. Ánh mắt nghiêm nghị vẫn còn, lấp lánh sau tròng kính trắng. Vinh quên hết nhiệm vụ của mình, quên hết mình đang khám bệnh, quên là mình đã ở xa quê nhà cả một đại dương, mừng rỡ chào Thầy, vẫn cung kính như ngày xưa còn là học trò trung học.
Từ đó, thầy Hợp được học trò chăm sóc sức khỏe rất chu đáo. Không biết vì bản chất Thầy vốn khỏe mạnh, vì Vinh chăm sóc cho Thầy không chỉ bằng kiến thức chuyên môn của một bác sĩ, mả còn bằng tấm lòng của một người học trò cũ, hay vì cả hai lý do, thầy Hợp trông khỏe mạnh và trẻ hơn so với những người cùng độ tuổi.
*
Tưởng đó là lần hạnh ngộ vui nhất trong đời ở phòng khám bệnh, nhưng có một lần khác, ngạc nhiên òa vỡ lớn hơn, đưa Vinh về với vị mặn của gió biển, với lần duy nhất hành nghề y khoa dã chiến giữa trời nước mênh mông.
Đó là một ngày mùa hè, ngày dài đến hơn 14 tiếng, bóng nắng vẫn còn lung linh trên hàng cây cổ thụ ven đường, Vinh đã cởi áo blouse trắng, chuẩn bị về thì cô thư ký gọi vào cho biết có người quen cũ, đến từ Châu Âu kiên nhẫn đợi đến lúc bệnh nhân cuối cùng rời phòng mạch để được gặp bác sĩ Vinh.
Vinh đặt chìa khóa xe vào lại ngăn kéo, nhờ cô thư ký mời khách vào phòng làm việc. Đó không phải là một người khách, mà là một gia đình gồm ba người. Hai vợ chồng đã qua tuổi trung niên, và một cô thiếu nữ chắc vẫn cỏn trong độ tuổi hai mươi. Vinh cố lục lạo trí nhớ của mình để nhớ ra người quen nhưng vẫn không nhận ra được khách là ai?
Vinh mời khách ngồi, nhã nhặn:
- Xin lỗi, tôi có thể giúp gì được cho quý vị?
Người đàn ông mở lời, giọng Saigon rất thân quen:
- Thưa bác sĩ, chúng tôi từ Ý đưa bé Biển đến thăm bác sĩ, và để cảm ơn bác sĩ đã lo cho mẹ con cháu chu đáo trên biển đông năm xưa.
Vinh tròn mắt ngạc nhiên:
- Ô, anh chị ngày xưa trên con thuyền vượt biển tháng 6 năm 1979 từ Long Hải, Vũng Tàu.
Ngưởi đàn bà cười tươi tiếp lời bằng giọng Huế nhẹ nhàng:
- Thưa đúng rồi, bác sĩ còn nhớ chúng tôi?
- Không những chỉ nhớ mà còn phục sự can đảm chịu đựng của chị năm xưa khi sanh con đầu lòng trên sàn tàu vượt biển không có ánh sáng, không có thuốc men, không có cả dụng cụ.
Đó là lần hội ngộ với một bệnh nhân cũ bất ngờ, cảm động nhất của Vinh.
*
Từ chiếc tàu buôn của Ý năm xưa, 68 thuyền nhân, cộng với "công dân của đại dương", bé Biển, được đưa về trại tỵ nạn Pulau Bidong của Malaysia. Từ đó, họ đi định cư ở nhiều nước khác nhau. Vinh định cư ở Mỹ. Gia đình nhỏ ba người của bé Biển đi Ý vì cảm kích lòng tử tế của thủy thủy đoàn trên thương thuyền của Ý, và vì bé Biển mang quốc tịch Ý.
Từ đó, bận rộn với cuộc sống mới với một khởi đầu mới ở quê người, Vinh không còn dịp liên lạc với bất cứ một thuyền nhân nào trên chuyến tàu vượt biển năm xưa.
Gia đình bé Biển đến Ý, ổn định cuộc sống. Họ làm hôn thú cho mình và khai sinh cho con ở Ý. Trên khai sinh, tên của bé Biển là Nguyễn Thị Đại Dương. Và như một kỷ niệm suốt đời mang theo, sợi dây chuyền với chiếc mỏ neo bằng vàng luôn nằm trên cổ em từ lúc chỉ mới vài ngày tuổi. Vài năm sau, họ có thêm một cậu con trai sinh ở Rome, vẫn có cái tên Việt Nam là Nguyễn Thái Bình, tên Ý là Grato (nghĩa là cảm ơn). Đó là cách để họ nhớ đến Thái bình dương với ân tình từ rất nhiều người cả Việt Nam lẫn Ý.
Cho đến một ngày nọ, tin tức địa phương từ một tờ báo về chuyện một ngưởi thuyền trưởng tài ba, nhân từ về hưu sau hơn 30 năm lênh đênh trên các đại dương, giúp họ tìm ra vị thuyền trưởng đã cứu vớt con tàu nhỏ bé năm xưa của những người Việt Nam tỵ nạn. Họ tìm đến gặp ông, và lần này đã có thể nghe ông kể lại câu chuyện và tâm trạng của ông năm xưa bằng tiếng Ý. Sau đó, họ được ông tặng tấm hình chụp con tàu tỵ nạn dạo nào, trên đó có họ gầy yếu xanh xao, có đứa con đầu lòng, bé Biển hãy còn đỏ hỏn, không có sữa uống, được nuôi bằng nước cháo.
Tấm hình được họ mang đến tiệm, nhờ chuyển qua dạng một cái plaque treo tường. Họ làm cho mình một, và một plaque thứ hai để dành tặng cho ông bác sĩ trẻ năm xưa giúp bé Biển chào đời an toàn trên sàn tàu vượt biên.
Bước vào thế kỷ 21, khoa học phát triển, google search giúp họ tìm ra bác sĩ Vinh. Vì ngày xưa trước lúc rời trại tỵ nạn, họ có hỏi thăm tên họ của Vinh. Nhờ một người bạn ở San Jose giúp đỡ thêm, họ đưa bé Biển, đã là một Bác sĩ sản khoa ở Ý, qua Mỹ thăm Vinh.
Cô bác sĩ trẻ người Ý gốc Việt nói với ông bác sĩ đã qua tuổi trung niên người Mỹ gốc Việt, bằng tiếng Việt rõ ràng, khúc chiết với giọng Huế pha Saigon:
- Thưa bác, con cảm ơn bác đã giúp cho con chào đời an toàn trên biển. Nghe ba mẹ con kể lại, và nhớ ơn bác năm xưa, con đã học sản khoa. Có lẽ suốt đời con không có cơ duyên đặc biệt như bác đã làm ngày con ra đời. Nhưng con nhớ hoài chuyện đó và vẫn kể cho bệnh nhân của con nghe khi họ sắp chuyển dạ để giúp họ thêm can đảm.. Con cảm ơn bác rất nhiều.
*
Thay cho lời kết:
Năm 2011, trong một lần đến họp và tập hát chuẩn bị cho hội ngộ cựu học sinh Ngô Quyền toàn thế giới lần thứ 2, ở phòng mạch của bác sĩ HQM, một đàn anh Ngô Quyền, chúng tôi thấy một plaque hình thuyền vượt biển khá đẹp, và được nghe kể lại một chuyện cảm động trên tàu thời đó.
Tấm plaque treo tường với chiếc ghe nhỏ bé chơ vơ giữa biển xanh đã thu hút sự chú ý của chúng tôi, một cựu thuyền nhân. Có những tình cờ trong cuộc sống để lại một dấu ấn suốt đời mang theo. Xin được ghi lại vài nét của một trong những chuyện không bao giờ quên trong lịch sử thuyền nhân. Hy vọng đời sống luôn có những người trọng tình nghĩa như những nhân vật trong chuyện, và những hạnh ngộ bất ngờ luôn luôn làm cho đời sống đẹp hơn.
(Viết từ một bức hình ở phòng mạch của BS Huỳnh Quan Minh. Thung lũng hoa vàng- đầu mùa xuân 2015)
Nguyễn Trần Diệu Hương
DH viết hay và cảm động quá ! Thật khâm phục BS tài hoa HQM !Trường NQ luôn rạng danh với những cựu học sinh xuất sắc như vậy !
Mong DH viết thêm nhiều hơn nữa về ngôi trương mến yêu, về những cựu học sinh đáng yêu như thế !
Thầy Diệp Cẩm Thu
Diệu Hương mến,
Mắt chị còn đang ướt, cảm động quá Hương ơi, đọc bài viết của Hương Ghi Lại Một Phần Đời mà chị không cầm được nước mắt. Cám ơn Hương kể lại phần đời nói về những người tử tế, những người can đảm, tiến thân, ham học hỏi.
Đất nước Việt mình sao khổ quá Hương ơi. Mỗi người là một phần đời khác nhau trong nhiều chuyến vượt biển lênh đênh với cái chết cận kề, đi tìm tự do phải trả cái giá quá đắt lúc đó mới thấy tự do đích thực của cuộc đời mình.
Chị nghĩ bé Bể sẽ đến thăm Hương, sẽ cám ơn Hương qua bài viết Ghi Lại Một Phần Đời của cô Diệu Hương ,
Đúng là Hương đã viết bằng trái tim, bằng sự ngưỡng mộ, nhờ bài viết của Hương chị sẽ gửi thông điệp này đến tất cả các bạn khắp nơi đọc, để biết thêm tình người nhân hậu, tình người bao la như biển trời.
Cám ơn Hương cho chị thêm một buổi sáng thứ bảy an lành nghĩ về Hương về những nhân vật sống đẹp qua câu chuyện.
Cám ơn trường Ngô Quyền , Biên Hòa Việt Nam có nhiều nhân tài Viết Văn, Làm Thơ , Bác Sĩ , Kỹ Sư.
Have a nice day nha Hương.
Châu Hà
Qua hay ca ve cau chuyen va
cach viet vua Dieu Huong
Chuc Mung
KH
Ý kiến bạn đọc
Trinh thanh Giang
Hay quá tác giả đã làm người đọc cảm xúc . Trái đất của ta cũng là một con thuyền trôi giữa hư không vô tận và những niềm đau nỗi khổ không tên vẩn tiếp tục xáy ra . và mong rằng mỗi chúng ta sẽ là một bác sĩ Vinh để cuộc sống có thêm nụ cười và bớt đi những giọt lệ thương đau.
Trâm
Hay và cảm động lắm, không cầm được nước mắt .
DUC TAN
Bài viết quá hay. Đọc mà quên ngủ vì bị cuốn theo câu chuyện!
Nguyễn B. Vân
"thẩy dạy Toán Nguyễn Thất Hợp"
Thày Nguyễn Thất Hợp hay Nguyễn Thất Hiệp? Ông thầy toán của tôi năm lớp 11 tên Nguyễn Bát Tuấn, thày nói có ông anh cũng dậy toán, tên Nguyễn Thất Hiệp.
Thanh
Bài viết hay và cảm động, dĩ nhiên là vẫn với lối viết ngăn nắp, trong sáng của DH làm người đọc thích thú .
Chúc mừng DH vẫn viết hay và khoẻ!
Co giao lang
Qua hay! Chan thanh cam on Co Dieu Huong. Cam on Bac si Vinh/Minh va gia dinh Bac si Be Bien.
Alpha V
Câu chuyện hay quá. Người kể còn hay hơn. Cám ơn chị NTDH!
Ty LU
Xin cám ơn tác giả đã viết lại một câu chuyện rất cảm động.
Ngoc Nguyen
Bài viết rất hay và cảm động. Bản thân tôi và gia đình tôi cũng là những thuyền nhân may mắn vượt biên từ Vũng Tàu Bà Rịa đến bờ biển Trenganu/Malysia năm 1984. 55 người trên 1 chiếc tàu gỗ dài 9 thước, chúng tôi đã gặp Cướp Côn Đảo, Bão Cấp 8, và cuối cùng cướp Thái Lan bắt đi 1 cô gái 18 tuổi. Đoàn người chúng tôi, 55 người, đến Mã Lai chỉ còn lại 54 người. Trải qua bao thăng trầm chúng tôi vẫn trân trọng đã được hơn 30 năm sống trong TỰ DO và thương xót những người dân VN vẫn còn kẹt lạ quê nhà.
Kính chúc bác sĩ Vinh và bé Biển tiếp tục sứ mạng giúp người.
Toại Tran
Đọc đến phát khóc. Cám ơn tác giả.
Louis N.
Tuyệt vời.
Chương
Truyện có hậu và cảm động...
Chung (Canada)
H. viết quá hay và rất cảm động.
C.- Bạn học xưa bên bờ sông Đồng Nai
Gummy
Chuyện thật cảm động nhưng em muốn hỏi bác sĩ Vinh và bác sĩ Huỳnh Quan Minh là một nguời hả chị?
Nam Lê
Hay lắm! Xin cám ơn tác giả.
Nhân vật của chuyện kể
Tác giả viết thay cho Trần Thanh Mai
Tôi tên là Mai, một người Việt Nam sinh ra ở Mỹ, được nuôi lớn lên bằng văn hóa Việt Nam, thức ăn Việt Nam và bằng sữa của Mỹ. Tôi được Ba Mẹ dạy tiếng Việt cẩn thận, và chỉ nói tiếng Việt ở nhà. Nên khi nghe tôi nói tiếng Việt pha lẫn âm hưởng Quy Nhơn -quê nội- và Biên Hòa -quê ngoại-, ít người biết tôi sinh ra ở California. Hồi nhỏ tôi còn được học tiếng Việt kỹ càng từ bà ngoại, một cô giáo dạy Tiểu học hơn 30 năm, nên không những chỉ nói, tôi còn biết đọc, và biết viết thông thạo. Sau này, ông bà ngoại dọn nhà về Florida, không còn ai ra bài và khảo bài tiếng Việt thường xuyên, khả năng đọc và viết của tôi không còn được như xưa, nhưng vẫn đủ để viết và đọc những chữ bình thường trong đời sống.
Ba Mẹ đặt tên Mai cho tôi vì đó là một cái tên Việt Nam mà tiếng Mỹ (my) và tiếng Việt (mai) đều có cùng một cách phát âm dù ý nghĩa khác xa nhau.
Theo Ba, đó là tên của một loài hoa thanh cao luôn xuất hiện trong phòng khách hay trước hiên nhà của người Việt Nam vào dịp Tết Nguyên Đán ở quê nhà, là một biểu tượng của ngày Tết.
Mẹ chọn tên Mai cho tôi vì muốn theo gương ông ngoại đặt tên con không có dấu, càng giản dị càng tốt. Và cũng vì Mẹ có đến hai người bạn thân cùng tên Mai, một là Bạch Mai, và một là Hồng Mai. Đến phiên tôi, Mẹ chọn tên Thanh Mai để có đủ ba sắc trắng, xanh, hồng là những màu Mẹ thích nhất.
Tôi học Sử Mỹ rất có hệ thống từ chương trình ở trường, và học Sử Việt, đặc biệt là giai đoạn 25 năm cuối thế kỷ 20 qua lời Ba Mẹ trong những bữa ăn. Tôi là đứa con đầu tiên của ba mẹ, thằng em trai duy nhất nhỏ hơn tôi 8 tuổi, nên lúc nhỏ tôi không có bạn để chơi, chuyên "hóng chuyện" của Ba Mẹ. Nhờ vậy mà tôi biết được nhiều điều mà các bạn Việt Nam bằng tuổi tôi không biết.
Lớn lên một chút, tôi hay giúp Ba Mẹ "phụ bếp", "chạy bàn" mỗi lần Ba họp bạn cuối tuần ở nhà. Bạn của Ba đa số là lính Hải quân của QLVNCH nên chuyện của họ thường là thời còn mặc áo lính và thời gian khổ khi mới tới quê người không có tiền, không có thân nhân, và không có cả quê hương. Lúc đầu tôi cũng không chú ý, nhưng có một lần, bác T. khóc khi kể chuyện di tản lạc mất vợ con. Lần đó, tôi quên cả "nhiệm vụ waitress" của mình, đứng dựa ở sau bàn trong bếp để ý lắng nghe chuyện gì làm một người đàn ông cao to, cương quyết như Bác T. phải chảy nước mắt ? Không ngờ điều đó giúp tôi được một điểm A extra credit cuối năm lớp tám khi cô giáo dạy Sử cho viết một chuyện thật xảy ra trong đời sống do ảnh hưởng của một giai đoạn lịch sử. Từ đó tôi hay để ý nghe những câu chuyện bên ly cà phê sau bữa ăn tối cuối thứ bảy ở nhà giữa Ba và các bạn của Ba. Những câu chuyện đó nếu chỉ nghe kể mà không thấy nét mặt của người kể chuyện thì không có gì đặc sắc, nhưng khi thấy nước mắt của họ, hay thấy những khuôn mặt buồn hiu hắt, người nghe sẽ nhớ rất lâu, có thể là suốt đời.
* * *
Mẹ đẹp nhất trong các anh chị em, thừa hưởng được cái dáng cao gầy của ông ngoại, và màu mắt nâu hổ phách từ bà ngoại nên được nhiều nam sinh cùng lớp theo đuổi từ năm lớp mười một.
Thời đó, những năm cuối thập niên 70 của thế kỷ 20, miền Nam Việt Nam mới đổi từ chính thể Cộng hòa qua chính thể Cộng sản trong sự uất ức của khoảng hai mươi triệu người miền Nam, và sự thất vọng của hơn hai mươi triệu đồng bào miền Bắc vì họ cứ ngỡ là miền Nam sẽ giải phóng cho người miền Bắc khỏi cảnh đói nghèo. Mẹ cùng các cậu, các dì lớn lên, mà không có ông ngoại bên cạnh. Ông bị chính quyền VC lừa gạt đi học tập 30 ngày (theo thông báo lúc đầu là 30 ngày). Không ngờ 30 ngày kéo đến hơn 3,650 ngày (10 năm). Bà ngoại ở nhà vẫn tiếp tục đi dạy ở trường Tiểu học ở gần nhà với đồng lương không đủ để nuôi một người, trong lúc bà phải thay ông ngoại nuôi mẹ và các dì các cậu. Nhưng đó là một "thành trì vững chắc" để cả "gia đình ngụy quân" khỏi bị đi kinh tế mới (một nơi rừng núi hoang vu, chưa có dấu chân người), và để giữ được căn nhà từ đường xây nên bằng công sức của hai đời ông cố và ông ngoại.
Biết không thể nào để các con sống trong cảnh bị xếp hạng thứ 14 trong 15 thành phần xấu nhất của chế độ mới, bà ngoại thu xếp đưa các con lần lượt vượt biển tìm tự do và tìm tương lai. Ngày ông ngoại được về nhà, bầy con của ông đã sống rải rác từ Châu Âu qua Châu Mỹ.
Bà ngoại đi dạy từ hồi chưa lấy chồng, nên học trò cũ của bà rất đông. Vào thời điểm tháng 4 năm 1975, học trò cũ lứa đầu tiên của bà ngoại đã đi làm, và cũng đã phải khăn gói đi "học tập cải tạo" như bao "ngụy quân" hoặc "ngụy quyền" khác. Thời đó, học trò từ lớp 1 đến lớp 11 được dạy môn Công dân giáo dục cho nên người ta lớn lên luôn nhớ ơn ông bà, cha mẹ, thầy cô.
Một trong những người học trò giỏi nhất của bà ngoại tự tử trong tuần đầu tiên của tháng 5 năm 1975 bằng súng của người cha quá cố để lại (ông là sĩ quan quân lực VNCH đã tử trận khoảng vài năm trước biến cố tháng 4/75). Nghe kể lúc đó giữa bao nhiêu bộn bề lo toan của chính thể mới ở miền Nam VN, chính quyền địa phương vẫn không quên cử người đến phạt tiền gia đình người quá cố với "tội chết ngu" ???!!! Trong nỗi đau mất con của mẹ người quá cố, mấy ông đeo băng đỏ đại diện chính quyền địa phương còn đứng trước quan tài, rao giảng "đạo đức cách mạng" như một con két mở miệng nói những điều được dạy mà không hiểu gì hết.
Ngày đưa tang anh, bà ngoại không thể đến tiễn người học trò cũ lần cuối vì biết sẽ không có ai dạy thế, và sẽ bị những con mắt cú vọ của các ông bà lo công tác đảng, đoàn trong trường để ý. Hôm đó, bà ngoại lo ra, không tập trung vào việc dạy dỗ, mắt cứ nhìn ra cửa sổ để khi xe tang anh chạy qua, có thể vẫy tay chào học trò lần cuối.
Lúc nghe kể chuyện này, tôi đang học lớp 12, bằng đúng tuổi anh học trò giỏi của bà ngoại năm xưa, tôi cứ nghĩ nếu người ta phải tự kết liểu đời mình ở tuổi 18 thì hẳn là người ta phải thất vọng, chán đời ghê lắm!
* * *
Tôi sinh ra ở Mỹ khi mà Ba Mẹ còn chân ướt chân ráo ở quê người. Tuần trăng mật của Ba Mẹ nghèo và có cả hạnh phúc lẫn mồ hôi. Ba Mẹ quen nhau ở trại tỵ nạn Pulau Bidong bên Malaysia, lấy nhau ở Mỹ lúc mới đến Mỹ được hơn một năm. Đám cưới nghèo, đơn giản, không có thân nhân, chỉ có bạn bè. Đàng trai kiêm luôn đàng gái là các cựu sĩ quan Hải quân VNCH, bạn trong quân đội của Ba. Lúc đó là năm 1979, cộng đồng Việt Nam tỵ nạn ở Mỹ mới có bốn năm, ai cũng nghèo. Nên đám cưới xong, cái account nhẹ tênh trong ngân hàng của Ba Mẹ không thể nhẹ hơn. Sau này, mỗi lần nhắc lại chuyện đó, các chú, các bác cứ vỗ vai Ba nửa đùa nửa thật:
- Hai vợ chồng mày làm một cái "vow renewal" để tụi tao còn đi mừng bù cho hồi xưa đi dự đám cưới mà không có tiền cho quà cưới.
Ba nhỏ nhẹ trả lời:
- Có cần thiết phải làm party không? Có nhiều cái không cần renew nhưng lúc nào cũng "tương kính như tân". Muốn mừng bù lại thì cứ viết check, "đây" sẽ nhận mà không hề thắc mắc khiếu nại gì hết!
Mẹ bỏ Michigan đầy tuyết trắng qua California nắng ấm vì lấy chồng thì phải theo chồng và vì California vừa ấm, vừa có nhiều đồ ăn Việt Nam. Nhất là mỗi dịp Tết âm lịch, ở một góc California có đủ mai vàng, pháo Tết, bánh chưng xanh, câu đối đỏ. Nếu trời không lạnh thì ở trong một không gian nhỏ nơi quần tụ đông đảo người Mỹ gốc Việt, tưởng như quê nhà đã được mang theo trọn vẹn bên đời lưu lạc.
Dạo đó, tuần trăng mật của Ba Mẹ không phải là Paris lãng mạn, chẳng phải là Hawaii thơ mộng, mà là xa lộ California Highway 1 với ven bờ Thái Bình Dương chạy dọc California với bờ biển thơ mộng Big Sur Coast. Có những dãy biệt thự vắng vẻ có "ocean view" ở Carmel là nơi vacation của dân nhà giàu, không ai ở, nhưng được maintenance cẩn thận, lúc nào hoa cũng tươi, cỏ cũng xanh. Ba Mẹ đứng chụp hình trước cửa những biệt thự này, mắt nhìn ra biền, buồn xa xăm, nghĩ đến những em bé Việt Nam đi bán cà rem, bán vé số trên các bờ biển quê nhà.
Có một lần ngồi soạn lại những hình cũ để làm một video cho cả nhà, tôi đã tìm thấy những hình của Ba, của Mẹ ốm nhom, ốm nhách, đứng ở bờ biển của trại tỵ nạn. Hình tuần trăng mật của Ba Mẹ thì dù đỡ ốm hơn, nhưng đứng trước biển, mắt Ba Mẹ vẫn không vui dù là vừa cưới nhau. Hình như ở bên kia Thái Bình Dương, nơi Ba Mẹ chào đời, nhiều người, nhất là con nít vẫn còn khổ lắm.
Tuần trăng mật của Ba Mẹ có những giọt mồ hôi vì chiếc xe quá cũ. Ba Mẹ lại thích đi đường dốc lên xuống để có thể ngắm biển vào ngày trăng tròn, nên có những đoạn chiếc Volkswagen già nua cũng dừng lại giữa đường ngắm cảnh như Ba Mẹ nên Mẹ cầm lái, và Ba ra sức đẩy, vổ về chiếc xe lên dốc...cùng đi hưởng tuần trăng mật với minh. Lúc đó, không có nhiều tiền nên thay vì vô những nhà hàng sang trọng, tuần trăng mật của Ba Mẹ được hiểu theo đúng nghĩa đen của nó: có những đêm uống mật (pha với nước trà) và ngắm trăng mùa hè chiếu sáng ven biển Thái Bình Dương. Tôi đã chào đời từ những ngày tháng như vậy, có màu hồng của hạnh phúc và màu xanh của hy vọng bên những giọt mồ hôi, những ngày đầu cơ cực của Ba Mẹ, như hầu hết người Việt Nam tỵ nạn.
* * *
Nghe kể, có một lần, lúc tôi mới được hơn 3 tuổi, một người bạn thân của Mẹ, của cả gia đình bên ngoại, mới từ trại tỵ nạn qua Mỹ đúng một tuần, từ San Francisco về Los Angeles thăm Mẹ. Hôm đó là một ngày cuối tuần gần giáng sinh, dù bận rộn với đủ thứ công việc cuối năm, nhưng háo hức muốn gặp bạn cũ, người bạn gắn với một thời hạnh phúc của Mẹ ở quê nhà, Ba Mẹ cùng đi đón bạn, bỏ tôi đang ngủ ở nhà một mình. Đón bạn xong, Ba vội vàng quay xe về lại nhà vì sợ tôi thức giấc sẽ khóc thét lên giữa một cái nhà vắng hoe, gợi sự chú ý của hàng xóm và của Child Care Agency thì...nguy to. Rất may là khi mọi người vừa về đến nhà khoảng 10 phút, tôi thức dậy, lò dò đi ra phòng khách nơi mọi người đang ngồi nói chuyện mà không biết là mình vừa bị "home alone" gần một tiếng đồng hồ!
Quà dành cho người bạn mới đến Mỹ của Mẹ là một năm báo Văn, gởi hàng tháng đến tận nhà. Vì Mẹ vẫn còn nhớ những giọt nước mắt của người miền Nam khi "chính quyền cách mạng" tịch thu từng xe sách, không chỉ ở các tiệm sách, mà còn từ nhà dân chúng.
Cứ như vậy, dù không được trực tiếp giới thiệu với những người bạn thân từ ở Việt Nam qua Mỹ của Mẹ, nhưng những tình cờ trong đời sống đưa đẩy tôi tiếp xúc và biết những người bạn thân của Ba, hay của Mẹ. Những người tỵ nạn chính trị thế hệ thứ nhất, mà một phần đời của họ là mẫu số chung của cộng đồng người Mỹ gốc Việt.
* * *
Hồi còn học Tiểu học, ông bà ngoại (qua Mỹ theo diện HO vào năm 1990) đi phỏng vấn trong tiến trình thành Công dân Hoa kỳ. Ba Mẹ phải đi làm, không tìm được babysitter, ông bà ngoại mang theo cả hai chị em chúng tôi đến văn phòng địa phương của Sở Di trú. Lúc đó tôi 9 tuổi, thằng An hơn 12 tháng, còn ngậm pacifier. Đến phiên ông bà ngoại vô phỏng vấn, người ta không cho đem theo con nít. Ông bà đành để chúng tôi ở ngoài, dặn dò tôi coi em cẩn thận, không được đi đâu cho đến khi ông bà trở ra. Tôi tự thấy mình quan trọng, ngồi ngay ngắn lại và cẩn thận nắm chặt tay em đang nằm trong Infant Seat.
Thằng An lúc đó chưa biết nói, hình như cũng biết thương chị, thương ông bà ngoại, dù còn thức nhưng miệng ngậm pacifier, mắt mở tròn, nhìn qua nhìn lại, không khóc la như lúc đói bụng ở nhà. Chỗ đó là văn phòng làm việc của chính phủ liên bang, có security đi qua đi lại nên chị em chúng tôi "coi nhau" an toàn cho đến lúc ông bà ngoại đi ra. "Thành tích giữ em" đó của tôi có được là ở nhà đã được Ba Mẹ dạy giữ em, và khuyến khích tôi:
- Hồi Ba bằng con, ở Quy Nhơn nghèo lắm, con nít năm, sáu tuổi đã phải bồng hay cỏng em mỗi ngày. Nhiều đứa lớn không nỗi vì phải bồng em cả ngày từ lúc chính bản thân mình đi đứng một mình còn chưa vững. Ở đây con coi em, chỉ ngồi bên cạnh em, không phải bồng bế em là sướng lắm rồi.
Những lời quen thuộc mở đầu "Hồi Ba/ Mẹ bằng con, ở Việt Nam..." tôi nghe nhiều lần, vẽ ra trong đầu tôi một đất nước VN chiến tranh lúc Ba Mẹ còn nhỏ, cái gì cũng thiếu thốn. Và vì vậy tôi trân trọng những gì mình đang có, những thứ mà tôi biết, cũng như những người Việt Nam tỵ nạn đến Mỹ với hai bàn tay trắng, Ba Mẹ phải vất vả rất nhiều để thế hệ chúng tôi có được ngày hôm nay.
Đất nước Việt Nam quê cha đất tổ của chúng tôi, mờ ảo với tôi (một người Việt Nam sinh ra ở Mỹ), nhưng là một "trời kỷ niệm" với thế hệ Ba Mẹ, là cả một "nỗi niềm mang theo" của ông ngoại, một cựu Sĩ quan QLVNCH phải chịu hơn 10 năm tù đày của đất nước xã hội chủ nghĩa. Nên càng lớn tuổi, ông ngoại càng buồn và khó tính hơn. Nhiều khi bà ngoại nửa đùa nửa thật với ông mỗi khi ông phàn nàn, bắt bẻ về một chuyện vặt vãnh nào đó:
- Ông ơi, tui chứ không phải là lính của ông trong quân đội hồi xưa mà ông cứ áp dụng nguyên tắc "làm trước khiếu nại sau".
Tôi phải vận dụng hết khả năng của mình trong môn Tâm Lý học để khuyên bà đó chỉ là trạng thái tạm thời của một người lớn tuổi đã bị ức chế tinh thần trong một thời gian dài ngày còn trẻ. Không biết vì thấy tôi có lý hay vì nghĩ đến thời gian khổ trong hơn 10 năm tù đày của ông ngoại trong các trại tù cải tạo của VC từ Nam ra Bắc, rồi từ Bắc vô Trung, bà ngoại chỉ bực mình đôi chút, rồi vẫn chìu theo ý ông.
Hình như với thế hệ của ông ngoại, những người đã cầm súng chiến đấu bảo vệ tự do, rồi phải buông súng một cách đột ngột vì vận nước, 40 năm dài đăng đẳng chỉ như một cái chớp mắt, và vết thương thể xác dù lành, nhưng vết sẹo vẫn còn đó, nhắc nhở một vết thương lòng mãi mãi không lành? Phải chi lúc chiến tranh Việt Nam chấm dứt, chính quyền Bắc Việt đối xử với quân đội miền Nam như người Mỹ đối xử với nhau khi Civil War (1861-1865) chấm dứt thì trong tâm hồn của cả một, hai thế hệ Việt Nam không hề có một vết thương lòng chưa bao giờ lành.
®®®
Mới đây ở năm cuối ngành Dược của UCI, tôi đi làm thêm ở một pharmacy để vừa có kinh nghiệm, vừa có tiền đổ xăng hay sắm những thứ vặt vảnh của con gái mà không phải ngửa tay xin tiền Ba Mẹ.
Như thường lệ, tôi đến nơi làm việc, chỉ kịp bỏ phần ăn trưa của mình vào tủ lạnh, khoác cái áo blouse trắng có gắn bảng tên, check trên computer các yêu cầu refill thuốc online, và bắt đầu đếm thuốc cho vào từng túi giấy nhỏ, có labels với tên thuốc, tên bệnh nhân, và liều lượng uống thuốc mỗi ngày. Công việc này tưởng đơn giản nhưng phải biết nhận ra các viên thuốc nhỏ xíu đủ màu đôi khi rất giống nhau về hình thức nhưng khác xa về thành phần và công dụng. Chỉ có vào buổi trưa khi nhân viên đứng ở quầy giao thuốc được nghỉ ăn trưa, tôi mới phải tiếp xúc với khách hàng, hay gọi điện thoại trực tiếp cho các vị bác sĩ khi không thể nào đọc ra chữ của họ trên các toa thuốc.
Hôm đó, tôi vẫn làm công việc "một ngày như mọi ngày" thì có cảm giác là ai đó đang quan sát mình. Tôi đảo mắt một vòng chung quanh, không có một khuôn mặt nào quen thuộc, ngay cả các khách hàng đến pharmacy nhận thuốc vài lần mỗi tuần.
Tôi tiếp tục làm việc và vẫn có cảm giác "đang bị nhìn", nhưng vẫn không phát hiện ra ai đang nhìn mình. Đến lúc giao thuốc cho một người Việt Nam, sau những giao dịch thông thường chuyên môn của ngành Dược bằng tiếng Mỹ, chú hỏi tôi với tiếng Việt giọng Saigon:
- Có phải má của cháu tên Duyên không?
Tôi ngạc nhiên vô cùng, trả lời bằng giọng Biên Hòa pha Quy Nhơn:
- Thưa phải, chú biết má của cháu?
- Không những biết mà còn học chung lớp với má cháu nữa.
- Chú có thể cho cháu biết tên để cháu về kể cho má cháu.
- Không cần đâu, cháu cứ nói là bạn học cùng lớp 12, thấy cháu giống hệt má cháu hồi xưa nên hỏi thăm vậy thôi.
Ông khách Việt Nam quay ra khỏi cửa, tôi tò mò nhìn vào tên tuổi bệnh nhân mình vừa giao thuốc, đó là một cái tên Việt Nam của đàn bà con gái, độ tuổi cũng khoảng bằng tuổi của Mẹ tôi. Nghĩa là ông khách vừa rời khỏi quầy nhận thuốc cho một bệnh nhân nữ, chắc là vợ của ông ta.
Tối đó, về nhà tôi kể cho Mẹ nghe tường tận chi tiết về người bạn cùng lớp thời Trung học của Mẹ. Tưởng là Mẹ sẽ ngạc nhiên, sẽ cố đoán tên người bạn cũ, nhưng thật không ngờ, Mẹ cười mỉm chi:
- Mẹ biết chú đó là ai rồi! Lần sau nếu có gặp chú đi refill thuốc, con nhắn chú là Mẹ con hỏi chú còn nhớ mấy phương trình Lượng giác không?
Tôi vừa rời Trung học chỉ vài năm, nếu tình cờ gặp một người bạn cùng lớp 12 ngoài đường, nếu không thân chắc cũng không nhớ tên. Vậy mà tình bạn thời thơ dại của Mẹ vẫn còn nguyên sau bao nhiêu năm tháng.
* * *
Ba Mẹ luôn luôn giữ truyền thống Việt Nam ở nhà, giúp chị em chúng tôi sống dung hòa được với cả hai nền văn hóa Việt và Mỹ. Không còn nhớ từ lúc nào, Ba Mẹ đã đưa chúng tôi đi chợ Tết hàng năm của người Việt ở miền Nam California với áo dài Việt Nam. Lâu dần trở thành một thói quen không thể thiếu của cả gia đình. Hồi nhỏ là vì có được những tờ tiền mới, được tha hồ ăn nhiều món ngon ở chợ Tết. Ngày Tết,giữ một truyền thống từ xa xưa, Ba Mẹ thường không từ chối những yêu cầu của hai chị em. Lớn lên, tôi có cảm giác tà áo dài Việt Nam làm có nhiều nữ tính hơn, dịu dàng, và... giống Mẹ hơn. Từ thương Mẹ, tôi thuơng luôn áo dài Việt Nam từ lúc nào không biết! Tôi thích mặc áo dài đi chợ Tết của người Việt lưu vong ở Little Saigon, Orange County mỗi dịp Tết Nguyên Đán. Cầm cái bánh chưng vuông vức làm bằng nếp pha lá dứa với nhân đậu xanh, hay nhân thịt bên trong, chúng tôi liên tưởng đến hình ảnh của ông Hoàng Tử Tiết Liêu hiền lành làm món ăn có ý nghĩa cho vua cha nhân ngày Tết. Thấy trái dưa hấu bày bán ở chợ Mỹ quanh năm, chúng tôi nhớ đến chuyện ông Hoàng Tử An Tiêm bị lưu đày, vẫn sống được bằng sự cần cù như bao nhiêu người nông dân bình thường khác.
Ngược lại, chúng tôi cũng ăn món bắp cải màu xanh, mặc áo xanh lá cây vào ngày St, Patrick của người Mỹ gốc Irish; và đón lễ độc lập của Hoa kỳ bằng lòng tự hào như một người bản xứ. Hai nền văn hóa Việt Mỹ lúc nào cũng sống đoàn kết, hòa thuận trong tôi.
Tôi tin chắc chắn là truyền thống Việt Nam của người Việt tha hương (nhất là những nơi có đông người sống quần tụ) ở khắp nơi trên thế giới vẫn được gìn giữ đến thế hệ thứ tư dù nhiều khi lúc đó cũng như cả triệu người Việt Nam khác, chúng tôi vẫn phải sống đời lưu vong.
Mỗi lần đến Tết, như cây cỏ đâm chồi nẩy lộc hồi sinh sau mùa Đông lạnh giá, hy vọng của mọi người lại dâng cao. Ông ngoại, một cựu Sĩ quan QLVNCH mong ngày xuôi tay nhắm mắt được gởi thân ở quê nhà tự do dân chủ. Mẹ, thế hệ tỵ nạn đầu tiên, mong được về dạy Công dân giáo dục và "Tâm hồn cao thượng" cho học sinh ở Việt Nam. Thế hệ của chúng tôi mong các bạn trẻ ở trong nước biết học hỏi cách làm việc của người Mỹ thay vì chỉ nhiễm một số thói hư tật xấu của người Tây phương.
Mong vô cùng người ta nhớ là tiền chưa khi nào, và sẽ không bao giờ mua được hạnh phúc. Đất nước phát triển nhờ các nhà máy sản xuất, nhờ trình độ dân trí. Chưa một đất nước nào phát triển nhờ những quán cà phê, và những khu du lịch ăn chơi. Hy vọng làm chúng ta có thêm niềm tin vào cuộc sống. Rồi sẽ có một ngày hy vọng thành sự thật. Phải tin như thế để sống, để nhìn ngày quê cha đất tổ được hồi sinh.
Nguyễn Trần Diệu Hương