Thưa Thầy Lần Cuối
Tác giả: Nguyễn Trần Diệu Hương
Tác giả dự Viết Về Nước Mỹ từ năm đầu tiên, cô nhận giải danh dự 2001, thêm giải vinh danh tác phẩm 2005 với bài "Tháng Tư, Còn Đó Ngậm Ngùi," kể về tình gia đình chung thuỷ của người Việt tị nạn tại Hoa Kỳ.
* * *
Từ trái: Ông thầy dạy triết Nguyễn Xuân Hoàng thời mới ra trường đầu thập niên 60 và học trò Ngô Quyền.
Với độc giả, Thầy là Nhà Văn Nguyễn Xuân Hoàng. Với các anh chị chs Ngô Quyền, Petrus Ký và nhiều trường tư khác, Thầy là giáo sư Triết. Với riêng em, Thầy là thầy dạy văn chương.
Lớp học của thầy trò mình không có bục giảng, phấn trắng, bảng đen như ở Ngô Quyền, ở Petrus Ký... năm xưa, mà Thầy dạy em trên E mail, đôi khi ở cái bàn trong góc của tiệm Peets Coffee & Tea trên đường Calaveras. Em nhớ nhất một điều "viết truyện ngắn đừng dùng nhiều tĩnh từ, không lạm dụng ngôn ngữ".
Lần đầu tiên, cũng đã vài năm trước, Thầy cho học trò "thử lửa" trên blog của Thầy, Thầy đã chuẩn bị tư tưởng trước cho em: "Người ta sẽ khen chê, bình phẩm đủ điều trên blog, mình viết bằng cảm xúc thật, cẩn thận trong chữ nghĩa thì mọi chuyện sẽ tốt đẹp"
Thầy có thói quen gởi cho các tác giả góp bài cho blog của Thầy trên VOA bài Thầy sẽ cho phổ biến. Em học được cách đánh số, theo dõi bài và mang áp dụng ngay vào các trang báo giấy hay online mà em có được hân hạnh góp phần vào việc "vác ngà voi".
Là cựu giáo sư Triết nhưng chẳng bao giờ Thầy nói chuyện Triết với em vì biết em chưa hề được học "Đạo đức học", "Tâm lý học" hay "Siêu hình học" thời trước năm 1975, nên Thầy không muốn phí thì giờ cho "nước đổ đầu vịt". Ngược lại Thầy hỏi em học Triết ở San Jose State University ra sao? Em kể về chuyện ông giáo sư người Mỹ dạy Triết mà dành cả một nửa thời gian nói về "Of Mice and Men" của John Steinbeck như một giáo sư dạy văn chương.
Thầy đã giúp em được hân hạnh biết Nhà Thơ/ Nhà Văn Trần Mộng Tú. Em "thừa thắng xông lên", xin được có một lần gặp mặt Nhà Văn/ Nhạc sĩ Nguyễn Đình Toàn, tác giả của "Giờ ra chơi", thì Thầy trở bệnh nặng và em không dám nhắc lại yêu cầu.
Em thì còn nợ Thầy lời hứa "Thầy gắng ăn uống để khỏe lại, em sẽ chở Thầy đi Salinas thăm mộ của Nhà Văn John Steinbeck". Lời hứa không bao giờ được thực hiện. Nhưng bây giờ thì Thầy đã có thể gặp tác giả của "Chuột và Người" để học hỏi kinh nghiệm viết văn của người đã nhận giải Nobel văn chương năm 1962. Thầy cũng đã có thể thong dong nhẹ nhàng về nằm dài trên bãi biển Nha Trang, gối đầu lên hai bàn tay đan ngửa vào nhau, nhìn trời xanh mây trắng, như Thầy, như em, và nhiều người Nha Trang đã làm khi vẫn còn ở thời Trung học.
Nếu Thầy có về thăm trường Võ Tánh, nơi Thầy đã học Pháp Văn với giáo sư Cung Giũ Nguyên, chắc Thầy sẽ ngỡ ngàng vì cái sân rộng phía sau có hai hàng dương rất đẹp của trường đã biến mất, thay vào đó là "trại giáo binh", nơi ở của những ông bà "kỹ sư tâm hồn" của nền giáo dục sau năm 1975, dạy học trò đủ môn, kể cả chủ nghĩa Marx Lenin, mà lại không dạy môn Công dân giáo dục. Chắc là Thầy không buồn lắm vì Thầy đã dạy em "Nỗi buồn luôn hiện diện khắp nơi, không tìm cũng thấy. Niềm vui thì mỏi mắt kiếm mà hiếm khi gặp được".
Bây giờ thì chắc hẳn Thầy ở một nơi thênh thang,"thoát vòng tục lụy", không còn những vui buồn, hệ lụy của trần gian.
Nếu Thầy có ghé thăm Ngô Quyền, hay Petrus Ký thì chắc Thầy sẽ tưởng là mình đến lầm địa điểm. Không còn có một chỗ trú chân an vui cho Thầy ở trường xưa, nơi ông thầy dạy Triết ở tuổi trên dưới 30 được rất nhiều nữ sinh "ái mộ" trên mức cần thiết. Đúng là "không ai có thể tắm hai lần trên cùng một dòng sông" phải không thưa Thầy?
Hôm đến tiễn Thầy lần cuối ở Oak Hill, em thấy, cạnh bên di ảnh Thầy vẫn có cái bánh Almond Crossant từ tiệm Peets, loại bánh Thầy thích nhất và có cả một ly Peets Coffee đã nguội ngắt.
50 năm sau, bàn thờ nhà văn có ly Peets Coffee.
Em chợt nhớ có một lần em định nhờ người bán hàng ở Peets bỏ ly cà phê vô microwave vì hôm đó là mùa đông, uống cà phê nóng sẽ ấm hơn, Thầy ngăn ngay lập tức:
- Ai lại đi hâm cà phê, làm như vậy đâu còn mùi cà phê nữa !
Ly cà phê trên bàn thờ của Thầy dù không còn nóng nhưng vẫn còn nguyên mùi cà phê như ý Thầy.
Tận bên Virginia, ở dưới Riverside CA, học trò Ngô Quyền xưa của Thầy đã cấp tốc làm slide show có đủ ba bài hát Thầy thích (như Cô đã cho tụi em biết) nhưng ở tang lễ Thầy, tụi em chỉ có thể cho chạy hình mà không có âm thanh. Dù sao tụi em cũng giúp những người viếng Thầy lần cuối thấy lại một phần đời của Nhà Văn/ Nhà Giáo Nguyễn Xuân Hoàng. Đó là một cách để học trò NQ trả nghĩa cho Thầy.
Dù Thầy không còn trên đời để đọc, nhưng học trò của Thầy ở Ngô Quyền xưa vẫn lưu giữ Thư quán Nguyễn Xuân Hoàng ít nhất là cho đến lúc nào trang web của trường Ngô Quyền vẫn còn tồn tại. Hy vọng ít nhất là một phần tư thế kỷ nữa.
Thầy đi bình yên. Cuộc đời vốn mong manh nhưng tình nghĩa thầy trò dù vô hình lại rất vững chắc, nên Thầy yên lòng ra đi, gia sản văn chương của Thầy, bầy con tinh thần của Thầy sẽ được tụi em lưu giữ cẩn thận.
Chữ nghĩa của em còn vụng về, thô thiển nên xin được tiễn Thầy bằng một câu thơ của cụ Nguyễn Du "mai sau còn có bao giờ".
Và bằng thơ của học trò thi sĩ Đông Hồ khóc ông ngày trước:
"Ân sâu nghĩa nặng tình dài
Khóc Thầy khóc mãi biết đời nào nguôi"
Cuối tháng 9/ 2014
Nguyễn Trần Diệu Hương
Chợ Chồm Hổm Cuối Tuần
Tác giả : Nguyễn Trần Diệu Hương
Tác giả một mình vượt biển giữa thập niên 80 khi còn tuổi học trò. Dự Viết Về Nước Mỹ từ năm đầu tiên, cô nhận giải danh dự 2001. Bốn năm sau, cô nhận thêm giải vinh danh tác phẩm 2005 với bài viết "Tháng Tư, Còn Đó Ngậm Ngùi," kể về tình gia đình chung thuỷ của người Việt tị nạn tại Hoa Kỳ. Sau đây là bài viết mới của cô.
* * *
Ngôi chợ chỉ họp vài tiếng mỗi buổi sáng thứ bảy nhưng đó là nơi rất nhiều người đến không chỉ để mua sắm, mà còn là nơi để tìm lại một chút hình ảnh quê nhà.
Lúc mới thành lập, ngôi chợ chỉ bán các loại trái cây, rau quả do nông dân trồng từ các nông trại nhỏ của họ ở ngoại ô mang lên thành phố bán hàng tuần vào mỗi thứ bảy. Chợ chỉ nhóm nửa ngày mỗi tuần từ bảy giờ sáng vào mùa hè (tám giờ sáng vào mùa đông) và kết thúc vào lúc một giờ trưa. Những ông bà nông dân (hầu hết là người Mỹ gốc Mễ Tây Cơ) đen đúa, thật thà, với đôi mắt to tròn đen láy, chân thật, dễ gây thiện cảm với người đối diện. Họ chở hàng trên những chiếc xe truck cũng giống họ, cục mịch, bám bụi đường, nhưng chắc chắn đáng tin cậy. Sạp hàng là những cái bàn xếp nhẹ nhàng, được lôi từ thùng xe truck xuống, mở chân ra, rồi táo, cherry, hồng, dâu, bưởi cam, quít, lê..., cùng cà rốt, khoai tây, cà chua, dưa leo, tía tô, bạc hà, dấp cá, ngò, chanh, hành, ớt, tiêu, tỏi..., mùa nào thức ấy,được bày la liệt trên bàn, không bắt mắt như quầy trái cây, rau cải trong các hệ thống chợ ờ Mỹ nhưng tươi vô cùng.
Có hôm tôi đến sớm, gần như cùng giờ họ đang bày hàng, thấy những bắp xà lách còn đọng sương, và những trái dâu tây tươi như cô gái ở tuổi mười sáu đương thì. Sau khi bày hàng họ bắt đầu chọn một số trái cây, cắt lát mỏng bỏ vào những hộp vuông, và đậy bên trên bằng một miếng nylon trong, bên cạnh một hộp tăm tre để người mua có thể ăn thử trước khi mua. Dĩ nhiên những miếng sample này không được rửa kỹ nhưng như thế lại gợi cho tôi những trái cây được hái từ trên cây xuống, được lau sơ bằng vạt áo rồi bỏ vào miệng nhai ngon lành của những ngày thơ dại ở quê nhà.
Sample nước uống thì sạch sẽ hơn, được rót ra trong những cái ly giấy nhỏ cho người đi chợ nếm đủ thứ nước ép từ trái cây: nước táo, nước cam, nước chanh, nước bưởi...
Đến hàng bánh mì mới thật hấp dẫn, bánh mì nóng đủ loại được cắt nhỏ bày trên những cái khay tròn to lót giấy trắng rất tươm tất, bên cạnh là một khay vuông nhỏ bày những sample dầu olive đủ loại để người mua có thể chấm ăn thử. Con nít thì được thử bắp rang bơ nóng đủ loại mặn, ngọt không hạn chế. Nhưng các em cũng được giáo dục kỹ, nên em nào tham ăn lắm cũng chỉ lấy hai phần.
Mỗi gian hàng đều có một hay hai giỏ rác nhỏ để chứa vỏ trái cây, ly giấy được người bán thay bao rác mới mỗi khi giỏ đầy hơn một nửa. Từ đầu đến cuối chợ không hề có một miếng rác. Ngôi chợ lộ thiên nhỏ xíu cũng phản ảnh được trình độ dân trí của một quốc gia giàu mạnh, và là một trong những nét văn hóa đường phố của Mỹ.
Lâu dần chợ mở rộng hơn bán cả một vài món đồ đặc sản của nhiều quốc gia như mấy con búp bê Matryoshka (con nhỏ nằm trong lòng con lớn) của Nga, nguyên vật liệu làm sushi của Nhật... Nhiều nhất là các món đồ trang sức giả, có những viên kim cương to bằng trái chôm chôm, làm một cách tinh xảo, giống như thật. Người bán cũng đa dạng hơn, đến từ khắp các nơi trên thế giới.
Giá bán tương đương với ở chợ nhưng tôi vẫn thích đi Farmers Market cuối tuần vì ở đó tôi tìm lại được hình ảnh những ngôi chợ chòm hỏm ở rải rác trên khắp Việt Nam.
Có lẽ nhiều người cũng cùng ý nghĩ như tôi, nên chợ khá đông khách. Và như quy luật cung cầu của kinh tế, chợ ngày càng lớn ra, không chỉ nằm ở một góc đường mà còn kéo dài đến cả một khúc đường dài cũng cả gần ba trăm mét. Mặt hàng cũng đa dạng hơn, ngoài trái cây, và rau cải, còn có các loại đậu, trái cây khô, bắp rang và cả bánh mì. Ước gì một ngày nào đó họ bán cả bắp nướng thoa mỡ hành thì tôi có thể thấy một góc quê nhà rõ ràng hơn.
Từ ngày có hàng bánh mì đủ loại: bánh mì Ý ướt dầu Olive, bánh mì baguette Pháp có mùi beurre hoặc mùi fromage "La Vache qui rit", bánh mì Trung Đông tráng mỏng như bánh tráng của Việt Nam..., khách hàng ngày càng đông hơn. "Sample" ăn thử cũng hấp dẫn hơn. Đi từ đầu đến cuối chợ là có thể no bụng, không cần ăn cho đến tối. Vì những người bán hình như có cá tính hiếu khách, rộng rãi của người miền Tây ở Việt Nam, hào phóng hơn cả hệ thống siêu thị bán lẻ khổng lồ Costco ở Mỹ. Người ta thoải mái ăn thử, không bị giới hạn. Tuy vậy người mua cũng biết đạo công bằng nên khi ăn thử từ miếng thứ hai trở lên, bao giờ họ cũng mua một ít thức ăn.
Và cứ như vậy, những người nông dân ít học này không được qua một trường lớp nào về kinh tế, thương mại, đôi khi nói tiếng Mỹ với giọng Mễ sai văn phạm lung tung, nhưng đôi mắt thật thà và sự rộng rãi của họ lôi cuốn khách hảng trở lại mỗi tuần. Tôi là một trong những khách hàng trung thành của họ từ cả chục năm nay.
Trong số đó, có một gian hàng ở cuối chợ của một cặp vợ chồng Mễ ở tuổi trung niên là nơi tôi không thể bỏ qua khi đi ngôi chợ chòm hỏm giữa trời này. Chắc là họ không được may mắn đi học tới nơi tới chốn, nhưng hình như họ có một tâm hồn rất phong phú. Cách bày hàng của họ rất có hệ thống và những tấm bảng giá nhỏ viết nguệch ngoạc cũng cuốn hút tôi và nhiều người khác. Ở những gian hàng khác có táo loại một 1.59/lb, táo loại hai 0.99/lb, ở đây bảng giá của táo vẫn vậy, nhưng tên gọi lại khác: loại xinh đẹp (the beautiful one) 1.59/lb, loại kém đẹp (the less beautiful one) 0.99/lb. Không những thế họ biết bài trí màu sắc từ vàng đậm của bí rợ, vàng tươi của cam, đến vàng nhạt của dưa gang; hay xanh đậm của hành lá, xanh nhạt hơn của dưa leo, đến xanh non của rau các loại. Cái tên "the less beautiful one" dĩ nhiên gây sự chú ý của người đi chợ hơn là "táo loại hai".
Vài năm nay gần đây, chợ xuất hiện một anh chàng râu tóc dài như phong trào hippies của vài thập niên trước. Anh ngồi trên một cái ghề gỗ, đàn bằng một cây guitar điện, có hai cái loa lớn để hai bên nên đầu đến cuối chợ đều có thể nghe được những bài hát đồng quê của anh, xen lẫn với những bài hát cổ điển rất hay như “Love Story” hay “My favorite things”. Trước mặt anh là cái thùng đàn guitar mở rộng, trông giống một nghệ sĩ du ca đang biểu diễn hơn là một người hát rong độ nhật. Người đi chợ bu chung quanh anh thành một vòng tròn. Sau mỗi bài hát, tất cả mọi người vỗ tay nồng nhiệt, có người bỏ vào cái thùng đàn những tờ giấy bạc màu xanh, hầu hết là một đồng, nhưng thỉnh thoảng cũng có những tờ giấy bạc những tờ năm đồng, hai mươi đồng. Anh say sưa biểu diễn dù thùng đàn chỉ lơ thơ vài tờ giấy một đồng hay cả một nhóm giấy bạc đủ loại nằm đoàn kết bên nhau.
Hầu hết mọi người đến cái chợ chòm hổm này mỗi thứ bảy, mua thức ăn chỉ là lý do phụ, lý do chính là để thấy lại một góc quê nhà ở quê hương thứ hai. Người Nga tìm mua được mấy con búp bê matryoshka doll, con nhỏ nằm trong lòng con lớn. Người Trung Đông mua được loại đậu Fava quen thuộc. Người Pháp tìm mua được croissant nho nhỏ kiểu Pháp. Và người Việt Nam như tôi tìm thấy rau mồng tơi xanh ngát của quê nhà. Hơn thế nữa, tôi còn thấy lại ngôi chợ chòm hỏm ở đầu hẻm Saigon, với những người bán hàng bình dị mộc mạc, chỉ bán hàng vài tiếng mỗi ngày, không chỉ bán thức ăn mà còn gởi theo món hàng của họ mùi biển mặn của Nha Trang, chiếc khăn mỏ quạ của xứ quan họ Bắc Ninh, và một chục mười bốn của Cần Thơ gạo trắng nước trong…
Quê hương ẩn hiện đâu đó ở những ngôi chợ nhỏ xíu có đôi mắt chân thật của những người bán hàng hiền hòa kiếm sống bằng mồ hôi nước mắt chân chính của mình.
Thung lũng Hoa Vàng- Jul 2014
HỌP MẶT TRUYỀN THỐNG NGÔ QUYỀN LẦN XIII
JULY 5 2014 - MILPITAS, CALIFORNIA
Tác giả : Nguyễn Trần Diệu Hương
Nguyễn Trần Diệu Hương là một trong những tác giả Viết Về Nước Mỹ kỳ cựu, được bạn đọc quí mến. Tham dự từ năm đầu, với nhiều bài viết đặc biệt, cô đã nhận giải Danh Dự năm 2001, và sau đó là giải vinh danh tác giả năm 2005 với bài viết "Còn Đó Ngậm Ngùi." Bài tường thuật sau đây do NT Diệu Hương viết nhân danh Ban Tổ Chức cuộc họp mặt mà cô là một thành viên.
***
Gần ba tháng ròng rã họp Ban Tổ chức (BTC) khoảng ba tiếng mỗi hai tuần để lo cho họp mặt truyền thống lần thứ 13 ở Milpitas, công sức của chúng tôi được đền bù xứng đáng với nhiều E mail chúc mừng sự thành công của họp mặt chs Ngô Quyền từ 6 giờ chiều đến 12 giờ đêm ngày 5 tháng 7 năm 2014 ở Champagne Ballroom, Crowne Plaza Hotel, Milpitas, California.
.
Họp mặt năm nay hân hạnh được đón tiếp quý Thầy Cô: Phan Thanh Hoài, Hà Tường Cát, Hoàng Phùng Võ, Mai Kiến Phúc, Đặng Thị Trí, Hoàng Minh Nguyệt, Bùi Thị Ngọc Lan, Nguyễn Thị Kim Dung, Huỳnh Thanh Mai từ Nam California; quý Thầy Nguyễn Phi Hùng, Nguyễn Thất Hiệp ở Bắc California; và Thầy Phạm Ngọc Quýnh từ nước láng giềng Canada. Bên cạnh đó là sự góp mặt của gần 100 thân hữu, dâu, rễ của Ngô Quyền và khoảng 150 chs NQ từ khóa 1 đến khóa 28 mỗi năm một lần "anh em ta về cùng nhau ta quây quần" .
.
Ở rất gần nơi họp mặt, Thầy Nguyễn Xuân Hoàng đang chiến đấu với bệnh tật, và Thầy Nguyễn Đình Phương bận việc quan trọng vào giờ cuối không thể có mặt chắc là cũng hướng lòng về với đồng nghiệp và học trò vào chiều tối ngày thứ bảy 5 tháng 7.
.
Điểm son đầu tiên được quan khách ghi nhận là họp mặt bắt đầu đúng 7 giờ tối giờ như chương trình. Bài quốc ca Mỹ được hát live bởi em Huỳnh Quan Trâm Anh, thế hệ thứ hai của chs Ngô Quyền. Bài quốc ca Việt Nam thiêng liêng, thân thuộc được ban hợp ca Bắc CA trình bày. Khi hát, chúng tôi gởi lòng về quê nhà và tưởng như mình đang đứng chào cờ mỗi sáng thứ hai hoặc thứ năm ở sân trường xưa yêu dấu
.
Một trong những phần phát biểu đầu buổi họp mặt là phát biểu của Thầy Nguyễn Thất Hiệp, GS cố vấn của Ban Tổ chức ở Bắc CA. Lời Thầy ngắn gọn như những bài giảng môn Toán năm nào, đã làm vơi bớt nhọc nhằn của Ban Tổ chức.
.
Thầy Giám học đầu tiên của trường Ngô Quyền,Thầy Phan Thanh Hoài cũng đã "hiệu triệu" ngắn gọn nhưng đủ để cho các anh chị vác ngà voi ròng rã hơn 10 năm qua mát lòng như được uống một ly đá chanh giữa mùa hè. Năm nay, "con chim đầu đàn" của Thầy trò Ngô Quyền ở hải ngoại yếu hơn như định luật thời gian. Chúng tôi chùng lòng nhìn cái dáng cao ốm của Thầy chậm rãi hiền từ bước từng bước một với sự trợ giúp của cái baton. Cầu mong sức khỏe Thầy ổn định để Thầy còn tiếp tục dẫn dắt chúng tôi ít nhất là một thập niên nữa.
.
Sau phần phát biểu của đại diện Ban Tổ chức và đại diện Ban chấp hành Hội chs Ngô Quyền , phần dạ tiệc bắt đầu với salad, bánh mì, và một món chính như lựa chọn của từng người tham dự. Trước đó, quan khách có dịp thưởng thức tài nội trợ của chs NQ khóa 2 Mai Thị Thanh Nhàn ở San Jose với 400 cuốn chả giò, (chị đã một mình cuốn từ cả tuần trước đó), cùng 300 cái bánh pâte chaud được order từ một nơi làm bánh nổi tiếng ở địa phương .
.
Năm nay, để có nhiều thì giờ hàn huyên, trưởng ban Tổ chức Huỳnh Quan Minh, và chị Bùi Thị Hảo đã không sắp xếp các tiết mục văn nghệ trong phần dạ tiệc. Trong lúc quan khách thưởng thức bữa ăn tối trong ánh đèn cầy lung linh ở mỗi bàn, chs NQ K9 Trần Thị Ngọc Châu, và chs NQ K15 Cao Thị Kim Hường đến từng bàn bán vé số gây quỹ, và bù vào chi phí tổ chức ở một khách sạn 4 sao của Mỹ. Không biết nhờ khả năng sales của chị Châu và Kim Hường, nhờ quan khách ước lượng được các khoản chi không nhỏ của BTC, hay vì cả hai lý do, vé số được ủng hộ nồng nhiệt như các kỳ xổ số Mega Million của Mỹ.
Sau phần "có thực mới vực được đạo”, trưởng ban Tổ chức đã cảm ơn các chs NQ đã đóng góp tích cực cho họp mặt truyền thống lần thứ 13, kể cả các anh chị trong Ban chấp hành Hội chs NQ từ Nam California.
BTC chỉ được cầm hoa hồng trong vòng vài phút. Sau đó hoa hồng được quý anh chị trong BTC kính tặng Thầy Cô ngay tại chỗ ngồi như một lời cảm ơn chân thành nhất từ học trò... già. Khi trao hoa hồng cho quý Thầy Cô hiện diện bằng cả hai tay, chúng tôi cũng trao những cành hoa hồng trong tâm tưởng đến những Thầy Cô vắng mặt, và cả những Thầy Cô đã nằm xuống bằng lòng biết ơn chân thành, vì dù ít dù nhiều, sự thành đạt của tất cả các chs NQ ngày nay đều có công sức của quý Thầy Cô ở Ngô Quyền xưa.
Trưởng BTC năm nay là một nhạc sĩ nên các màn văn nghệ dù là của "cây nhà là vườn", của thân hữu, hay là của các giọng hát chuyên nghiệp ở địa phương đều nhận được những tràng pháo tay của 240 khán giả. Trong không khí nhạc thính phòng, đèn trong phòng được tắt hết, chỉ có ánh nến lung linh ở mỗi bàn, và ánh đèn màu trên sân khấu, hai ca sĩ Diệu Linh, và Anh Tuấn cũng có thêm cảm hứng nên trình bày xuất thần các bài tình ca hơn 40 năm trước do chị Bùi Thị Hảo chọn. Xin cảm ơn Nhạc sĩ Cao Trầm đã góp phần làm cho phần văn nghệ khá hoàn hảo với âm thanh, ánh sáng, và các nhạc cụ của anh .
Xen kẻ trong các bài hát là phần xổ số được hai MC: chs NQ K8 Nguyễn Thành Long, và chs NQ K16 Nguyễn Thị Thu Hương điều khiển rất linh động. “Thần tài” đã không thiên vị nên 7 giải thưởng nhỏ (có cả một cái Apple mini Ipad cùng nhiều giải thưởng có giá trị khác được một số anh chị trong BTC đóng góp) đều thuộc về khách phương xa, cùng các chs NQ Nam California. Giải độc đắc (cái TV HD flat screen 39 inches được chs NQ K9 Phạm Công Hoàng bảo trợ) về tay chị Trần Thiên Hà, "nhà tôi" của chs NQ K7 Trần Phương Nam, ở Walnut Creek, Bắc California .
Như dự định, gần 11 giờ đêm, BTC tiễn quý Thầy Cô lên tầng 4 của khách sạn nghỉ ngơi. Bầy học trò.. già bắt đầu nhảy nhót như tuổi đời vẫn còn đếm đủ trên các đầu ngón tay và.... ngón chân. Vui nhất và hăng nhất phải kể đến các chs NQ K14 với các anh chị đến từ xa, trong đó có những người lần đầu dự họp mặt NQ như cựu hoa khôi Đào Thị Tú Trang đến từ Oregon. Vì lần đầu gặp lại nhau sau gần 40 năm nên NQ K14, vũ sư của chs Ngô Quyền, anh chị Bùi Thanh Lam và Mai đã tập trung thời gian cho bạn xưa, không trình diễn những bước nhảy bay bướm, điêu luyện của anh chị như thường lệ .
Cuộc vui nào dù dài đến đâu cũng có lúc phải dứt, BTC tiễn khách về và quay lại giúp nhau "cuốn cờ, tháo sân khấu" lúc nửa đêm, chấm dứt một ngày bận rộn, mệt nhưng đầy niềm vui.
Trong dư âm rất gần của họp mặt truyền thồng Ngô Quyền lần thứ XIII ở Bắc California, xin chân thành kính cảm ơn quý Thẩy Cô không quản ngại đường xa về San Jose "đoàn tụ ngắn hạn" với đồng nghiệp và học trò. Xin cảm ơn Thầy Nguyễn Thất Hiệp đã sát cánh cùng BTC trong suốt hai tháng qua. Xin cảm ơn Thầy Phạm Ngọc Quýnh đã cho con gái út là Phạm Ngọc Quỳnh Thư năng nổ và tích cực giúp BTC.
Xin đặc biệt cảm ơn chs NQ K15 Liên Thất Hậu (Bác sĩ chuyên khoa tim John Hậu Liên ở San Jose) người bảo trợ lớn nhất trong số rất nhiều bảo trợ của họp mặt NQ truyền thống lần thứ 13 của họp mặt năm nay. Đóng góp của anh đã giúp BTC cân bằng thu chi, không phải “móc hầu bao” ra bù lỗ.
Xin tuyên dương tinh thần "lấy chồng phải… vác ngà voi cùng chồng" của các chị Huỳnh Quan Minh (Phương Khanh); Nguyễn Anh Tuấn (Cẩm Vân); và Trương Kiến Xương (La Nhung).
Xin cảm ơn các anh chị chs NQ "anh em ta về cùng nhau ta quây quần", và thân hữu đã đến chung vui với Thầy trò Ngô Quyền.
Và cuối cùng xin chân thành xin lỗi về những khiếm khuyết, những điều chưa toàn hảo.
Hẹn gặp nhau ở họp mặt truyền thống lần thứ XIV năm tới ở Orange County, và hội ngộ chs NQ toàn thế giới lần III năm 2016 ở Bắc California.
Nguyễn Trần Diệu Hương
Thung lũng Hoa vàng JUL 2014
Tác giả : Nguyễn Trần Diệu Hương
Theo con số của FIFA, trong mùa WorldCup 2014 ở Brazil, hơn hai trăm ngàn vé đã được bán ra ở Mỹ. Nghĩa là có hơn hai trăm ngàn cổ động viên theo chân đội Mỹ ở các sân cỏ Brasil. Đó là cầu thủ thứ 12, chỉ đá banh bằng miệng, và bằng lòng yêu nước nhưng là một nguồn thuốc tăng lực rất quan trọng cho 11 cầu thủ chạy trên sân dưới màu cờ của Mỹ.
Đâu đó trong số 51,900 khán giả trên sân vận động Arena Fonte Nova ở thành phố Salvador của Brasil (a brand new stadium chỉ mới được khánh thành trước WorldCup 2014 không lâu) được may mắn coi trận knockout cuối cùng của vòng 16 đội, có hơn một trăm ngàn cổ động viên người Mỹ đã "mở hầu bao tiền tiết kiệm khăn gói quả mướp", vác ba lô xuôi... Nam Mỹ ủng hộ đội nhà.
Ở quê nhà, với 4 múi giờ khác nhau từ Đông sang Tây, nhưng giờ Brasil là Nam Mỹ, nên khi phe ta ra trận trên sân cỏ là giờ làm việc ở Mỹ nên hầu hết cổ động viên của Mỹ chỉ được theo dõi kết quả live trên Yahoo Sport.
Khắp nước Mỹ, các màn ảnh TV cở lớn nhất được mở ra ở các quán sport bars của tư nhân. Ở các thành phố lớn như Chicago, San Jose, New York, Los Angeles, San Francisco…rất nhiều TV màn ảnh lớn như màn ảnh cinema được mở ra ở các công viên lớn để khán giả Mỹ được "khóc cười (và bể tim) theo… những cặp chân vàng của đội nhà".
Chỉ ở miền Bắc California, có hai outdoor TV màn ảnh lớn như rạp chiếu phim ngoài trời (Drive-in movie) ở San Francisco's Civic Center Plaza, và San Jose's Cesar Chavez Park quy tụ cả chục ngàn "tín đồ bóng đá", cùng hàng trăm ủng hộ viên với cờ Mỹ bay phất phới trong tay chưa từng coi đá banh nhưng đến với cờ Mỹ bay phất phới trong tay để hò reo ủng hộ màu cờ Hoa kỳ vì lòng yêu nước
Kết thúc 90 phút thi đấu, dù đá trên chân Mỹ, nhưng đội Bỉ không thề mở được tỉ số vì Hoa kỳ có thủ môn Tim Howard rất tuyệt vời, đã cứu giữ lưới nhà nguyên vẹn đến phút thứ 90.
Đá thêm hai hiệp phụ trong 30 phút, cầu thủ cả hai bên đèu đuối sức dưới cái nóng mùa hè của Nam Mỹ.
Ở phút 93, Hoa kỳ bị dẫn trước 1-0 làm mất hẳn tiếng hò reo từ các ủng hộ viên Mỹ.
Nỗi buồn càng tăng cao, và xem như con đường World Cup của đội Hoa kỳ chấm dứt khi tiền đạo Lukaku của Bỉ nâng tỉ số lên 2-0 cho Bỉ.
Tưởng rằng "định mệnh đã an bài" với tỉ số 2-0 nhưng "hy vọng lại vươn lên" dù chỉ le lói ở cuối đường hầm khi tiền đạo Julian Green vừa vào sân thay cho Bedoya chưa được hai phút đã tung lưới đội Bỉ rút ngắn 1 bàn thua với tỉ sồ 2-1.
Còn 15 phút nửa là kết thúc hai hiệp phụ, các cầu thủ Bỉ rút về sân nhà bảo vệ chiến thắng mà họ đã đạt được rất khó khăn.
Lực bất tâm, đội quân áo trắng không thể nâng tỉ số lên thêm được nữa, đành để mất đội quân áo đỏ lấy chiếc vé vào tứ kết.
Mùa lễ Độc lập năm nay của Mỹ đã kém vui hơn một chút vì World Cup 2014 vừa chấm dứt cho đội Mỹ.
Nhưng chắc chắn ngày mai khi về nước, đội Mỹ vẫn được đón tiếp nồng nhiệt vì họ đã đi xa hơn hơn các dự đoán ban đầu.
Chia tay World Cup 2014, đội Hoa kỳ vẫn ngẩng cao đầu với các cố gắng và tiến bộ của mình mặc dù "We do the best but not good enough"…
Nguyễn Trần Diệu Hương
(Viết cho mục "Phiếm luận thể thao" của web NQ.)
July 1, 2014
Tác giả : Nguyễn Trần Diệu Hương
Nguyễn Trần Diệu Hương là một trong những tác giả Viết Về Nước Mỹ kỳ cựu, được bạn đọc quí mến. Tham dự từ năm đầu, với nhiều bài viết đặc biệt, cô đã nhận giải Danh Dự năm 2001, và sau đó là giải vinh danh tác giả năm 2005 với bài viết "Còn Đó Ngậm Ngùi."
* * *
Mùa Thanksgiving về với người dân Mỹ từ đầu tháng 11 với những thức ăn truyền thống ở các ngôi chợ. Trong đó có những bao khoai lang đỏ tươi tốt mời gọi người mua luôn mang tâm tưởng chúng tôi về rất gần với cả hai quê hương.
Quê hương thứ hai có tiệc Thanksgiving đoàn tụ gia đình có nhiều món ăn truyền thống để nhớ lịch sử, từ năm 1621, khi những thuyền nhân đầu tiên đến Mỹ làm đại tiệc tạ ơn trời đất, cảm ơn thổ dân, (đặc biệt là anh chàng Squanto đầu đội một dãi khăn có gắn một chiếc lông gà Tây đã nhiệt tình chỉ dẫn người Pilgrim trồng trọt, canh tác trên vùng đất mới.) Khởi đầu từ đó, những lễ tạ ơn sau này vẫn thường có các món ăn từ bí ngô, từ khoai tây, khoai lang cạnh món gà tây.
Tuy nhiên người ta chú trọng đến món ăn truyển thống của ngày lễ tạ ơn bí đỏ, khoai lang,và khoai tây, các loại lương thực bội thu vào mỗi mủa thu ở Mỹ, hơn là thịt gà Tây vì ngay từ ban đầu lễ tạ ơn phát xuất từ ngành trồng trọt chứ không từ ngành chăn nuôi.
Lần đầu tiên ngồi vào tiệc Thanksgiving, là người tỵ nạn còn còn phảng phất nắng gió của đại dương và của trại tỵ nạn, trước một bàn tiệc ê hề thức ăn, chúng tôi chỉ thích ăn sweet potatoes pie vì khoai lang gắn liền với một hoài niệm tuổi thơ buồn nhiều hơn vui, sau năm 1975 ở quê nhà. Lúc đó chúng tôi chưa quen với "thức ăn bơ sữa" béo ngậy, thừa mứa chất dinh dưỡng, nên cứ nhẩn nha "khều dao nĩa" vào các món chính, đợi món bánh pie làm bằng khoai lang mài ra trộn với sữa, rồi nướng lên. Món ăn khác xa với khoai nướng, khoai luộc ở Việt Nam nhưng mùi vị thì vẫn là mùi khoai lang quen thuộc mà thế hệ chúng tôi đã phải ăn thay cơm cả một ấu thời và thiếu thời ở quê nhà.
Cái bánh pie màu vàng nâu làm từ những củ khoai lang màu vàng cam to ươm mật -ngọt khác xa với những củ khoai lang đỏ, khoai lang trắng thon dài đôi khi bị sùng ở quê nhà- nhưng cũng mang về cả một thời gian gian khó sau chiến tranh, rõ mồn một trong đầu chúng tôi như chuyện mới xảy ra hôm qua.
Đó là thời cơm thường phải độn khoai lang khô hay bắp hột, nấu bằng than củi, nếu không biết cời lửa đúng lúc, cơm sẽ "trên sống dưới khê tứ bề nhão nhẹt", gần giống cháo heo. Do vậy thay vì dùng câu ngạn ngữ "chán như cơm nếp nát", thế hệ chúng tôi đổi thành "chán như cơm độn khoai".
Thời đó, hạnh phúc tuổi thơ ở Việt Nam không phải là Xbox, là Tablet... như các em nhỏ ở Mỹ bây giờ mà hạnh phúc của chúng tôi chỉ đơn giản là có được một củ khoai lang, hay tuyệt vời hơn là khoai tím dương ngọc, ngọt bùi, không bị sùng, không bị đắng, ăn sáng thay vì phải vác cái bụng rỗng đi học, mà đầu óc cứ tơ tưởng đến mấy củ khoai lang luộc ngọt bùi.
Hồi ức tuổi thơ đó hằn sâu trong tâm tưởng nên mãi đến bây giờ, tuần nào đi chợ, chúng tôi cũng mua vài củ khoai lang, khi thì khoai đỏ, khi thì khoai trắng về để lâu lâu bỏ vô microwave một củ, tìm lại hạnh phúc tuổi thơ, dù muộn màng nhưng mang về được cả một thời mới lớn vô tư đẹp nhất đời người ở quê nhà.
Khoai tím thì chỉ tìm được ở những chợ lộ thiên mỗi thứ bảy nông dân mang lên thành phố bán những rau, trái, củ, quả họ mới hái từ nông trại ngày hôm trước. Khoai lang tím ngọt hơn, chắc hơn, gắn với một cái tên mỹ miều là "khoai dương ngọc", và buồn thay cũng gắn với đôi mắt to tròn ngơ ngác của cô bạn học ngày xưa, sáng đi học chiều đi bán khoai lang cuối thập niên 70s. Rỗ hàng của bạn cũng nhỏ nhoi, tội nghiệp như bạn, chỉ có mỗi một mặt hàng khoai lang, nhưng đủ màu: vàng, đỏ, trắng, tím. Cả lớp khi nào có được vài đồng tiền lẽ hiếm hoi, quý báu đều dồn hết mua khoai trước là ủng hộ bạn, sau là để trám vào cái bao tử lúc nào cũng lưng lửng của mình.
Ký ức buồn bã có củ khoai lang, có hình bóng quê nhà nên chúng tôi ăn khoai lang hàng tuần chứ không phải chỉ ăn như một món tráng miệng truyền thống trong tiệc Thanksgiving vào cuối tháng 11 hàng năm.
Dù là bánh khoai lang nướng dịp lễ tạ ơn mùa thu ở Mỹ hay những củ khoai lang luộc bốc khói mang ra từ microwave vẫn mang chúng tôi về với quê nhà xa ngàn dặm nhưng luôn luôn gần gũi, thân thương trong tâm tưởng.
Thanksgiving 2013
Nguyễn Trần Diệu Hương
Giữa Hai Bờ Sinh Tử
Tác giả : Nguyễn Trần Diệu Hương
Tác giả một mình vượt biển giữa thập niên 80’ khi còn tuổi học trò. Dự Viết Về Nước Mỹ từ năm đầu tiên, cô nhận giải danh dự 2001. Bốn năm sau, cô nhận thêm giải vinh danh tác phẩm 2005 với bài viết “Tháng Tư, Còn Đó Ngậm Ngùi,” kể về tình gia đình chung thuỷ của người Việt tị nạn tại Hoa Kỳ. Ông là một cấp chỉ huy chiến trận của quân lực VNCH. Bà là người vợ một đời vì chồng con. Sau biến cố Tháng Tư 1975, Ông bà định cư tại San Jose. Hơn 10 năm cuối đời, Bà bị bệnh Alzheimer và Ông ngày đêm ở bên Bà chăm sóc. Sau khi Bà từ trần năm 2007, cây hồng Bà từng tự tay trồng trong vườn nhà tiếp tục được Ông vun quén, mỗi mùa vẫn đơm trái ngon tặng cho người quen biết. Bài mới của Nguyễn Trần Diệu Hương kể tiếp câu chuyện cũ, với lời ghi “Viết thêm đầu mùa hồng 2013. Như một lời cầu an cho những người đang đứng giữa hai bờ sinh tử.” Việt Báo Viết Về Nước Mỹ được phép ghi chú: Nhân vật Ông (viết hoa) là Đại Tá Ngô Văn Định, một lữ đoàn trưởng Thuỷ Quân Lục Chiến VNCH, cấp chỉ huy trận tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị năm 1972. Có thể đọc đầy đủ về Ông trên trang mạng Tổng Hội Thuỷ Quân Lục Chiến Việt Nam, tại: http://www.tqlcvn.org/tqlc/hk-motdoimuxanh1.htm
* * *
Lâu lâu nhận được những cái E mail của Ông, nhìn giờ gởi là hai hay ba giờ sáng, không nói ra nhưng chúng tôi đều hiểu Ông vẫn còn giữ thói quen thức dậy mỗi hai tiếng một lần, mỗi đêm để check up tình hình sức khỏe của Bà.
Chỉ cần khoảng ba tháng liên tục làm một hoạt động nào đó, đúng giờ, đồng hồ sinh học trong cơ thể con người quen với một thời khóa biểu cố định, Trong trường hợp này, Ông đã chăm sóc Bà, triền miên trong bệnh Alzheimer từ cả thập niên thì chắc hẳn là giấc ngủ của ông tự động chỉ kéo dài mỗi hai tiếng, ông bật dậy, tỉnh táo đi quanh trong nhà, dù là không còn có Bà để được chăm sóc nhau ở đoạn cuối cuộc đời.
Ông đã dốc hết tâm trí vào việc chăm sóc Bà, từ việc đọc những tài liệu về bệnh Alzheimer (đến bây giờ Y học vẫn thua cuộc trước căn bệnh mất trí nhớ này) đến việc dành hết thì giờ ở cạnh Bà, lo từng muỗng cháo đến từng hớp nước. Mỗi năm vài lần, ghé qua thăm Ông, nhìn cảnh Ông vào ra trong căn nhà tĩnh lặng, không có tiếng nói, không có tiếng cười, dù vẫn thường xuyên có hai vợ chồng, nhìn Bà gầy như chiếc lá trên giường bệnh, rồi nhìn những hình ảnh của Ông trong quân phục thời còn nổi trôi trên các chiến trận từ Cà Mau đến Bến Hải, tôi vẫn tự hỏi ông đã lo cho hàng ngàn binh sĩ Thủy Quân Lục Chiến ngày trước và lo cho Bà bây giờ, nỗi lo nào lấy đi nhiều tâm lực của ông hơn?
Chỉ ở cách nhà ông khoảng 30 miles nhưng tôi được tin Bà vào bệnh viện (và mãi mãi khờng bao giờ về) qua đường dây điện thoại viễn liên từ Đông sang Tây của nước Mỹ từ một đồng đội của Ông ngày xưa (và là một người bạn tù của Ba từ thời gian khổ ở trại tù Nam Hà ngoài Bắc cuối thập niên 70).
Chúng tôi vào bệnh viện thăm Bà và để hỗ trợ tinh thần cho Ông trong những ngày Bà đứng giữa hai bờ sinh tử. Tôi vốn sợ không khí thoang thoảng mùi Ethanol của bệnh viện, sợ nhìn nỗi đau đớn thể xác của giai đoạn thứ ba trong chu kỳ “sinh lão bệnh tử” của loài người, nên bao giờ vào bệnh viện, dù là đi thăm ai, tôi cũng thường nhờ người “escort” để có thề bỏ ngoài tai mắt những đau đớn rất thật của "đời là bể khổ”. Lần vào bệnh viện thăm Bà mùa Đông 2007, có hai người bạn đi cùng. Cả hai đều qúy Ông như tôi, và đều là “chuyên gia bệnh viện” nên tôi thấy “ấm lòng chiến sĩ” hơn, mùi Ethanol dường như bớt nồng nặc hơn. Còn hơn thế, tôi không phải đi lòng vòng tìm chỗ đậu xe như những lần đi thăm người bệnh khác vì một trong hai người bạn có thời làm ở bệnh viện nơi Bà đang điều trị, biết rất rõ “sweet spot”, để đậu xe, và đi tắt vào bệnh viện qua cửa phòng cấp cứu để tôi đỡ bị thấy những nơi đau đớn thể xác rất thật của con người.
Vì vậy, nên đến lúc đứng cạnh giường bệnh của Bà, tôi vẫn còn “bình tĩnh”, đầy đủ tinh thần để quan sát, và thấy rõ tình nghiã phu thê của Ông đối với Bà cảm động, và sâu xa hơn tình nghiã “một duyên hai nợ âu đành phận” nhiều. Ở cái bảng nhỏ cuối giường có tên người bệnh, có tên Bác sĩ, Y tá trực trong ngày, Ông viết thêm tên của Ông và số điện thoại liên lạc trong trường hợp khẩn cấp. Ở tuổi ngoài 70, Ông vẫn túc trực ở Bệnh viện bên cạnh Bà từ sáng đến tối, thường là chỉ được ngồi nghỉ chân trên cái ghế nhỏ ở cuối phòng. Ông chỉ chạy về nhà để ăn uống qua loa và làm vệ sinh cá nhân, chợp mắt vài tiếng rồi, lại chạy vào bệnh viện, dù là chỉ để được nhìn bà đã chìm vào hôn mê, mắt luôn nhắm nghiền, đang mỏi mòn thoi thóp giửa hai bờ sinh tử Cô Y tá trực người Phi Luật Tân vào check up Bà vài lần trong ca trực, luôn thấy Ông quanh quẩn bên giường bệnh, thỉnh thoảng lại nhìn cái máy chuyển chất dinh dưỡng lỏng vào cơ thể Bà ở đầu giường, cũng cảm kích trước tinh nghiã vợ chồng của Ông đối với người bệnh nên chăm sóc Bà chu đáo hơn bệnh nhân ở giường bên kia, cùng phòng với Bà. Người y tá cũng để cho Bà mặc quần áo như ở nhà ( bộ đồ lụa màu hồng) thay vì yêu cầu Ông đổi quần áo bệnh viện cho Bà. Nguyên tắc của Bệnh viện sau chín giờ tối, thân nhân phải ra về, cần gì thì người bệnh bấm chuông gọi y tá, nhưng vì bà là bệnh nhân Alzheimer nên y tá trực cho các cô con gái của Ông Bà thay phiên nhau ở lại bệnh viện với Mẹ. Ban ngày khi các chị đi làm thì Ông và cô điều dưỡng, người vẫn đến giúp Ông chăm lo cho Bà từ nhiều năm nay ở nhà, vẫn túc trực bên Bà. Suốt hai tuần Bà nằm bệnh viện, nhân viên trực đêm ở đó quen mắt với hình ảnh ông cụ Việt Nam người tầm thước -đi đứng dù có chậm vì tuổi tác nhưng vẫn đàng hoàng đĩnh đạc như năm xưa cầm quân ngoài mặt trận- rời bệnh viện trễ nhất và có mặt từ lúc trời còn mờ sương ngay khi bệnh viện cho người thăm nuôi vào.
Chúng tôi đến thăm Ông Bà, lần này ở Bệnh viện thay vì ở nhà như lần trước, vừa quý Ông về những đóng góp của Ông cho cuộc chiến tranh bảo vệ tự do mà cuối cùng “kẻ xấu đã thắng” như ý kiến của Thượng Nghị sĩ John McCain, vừa cảm kích tình nghiã vợ chồng của Ông Bà, nên đã mang vài thứ thức ăn nhẹ cho Ông, nhưng xem chừng trên giường người bệnh không ăn uống được vì yếu sức, ở góc chân giường, người trông bệnh cũng chẳng nuốt trôi được chút thức ăn nào vì lo lắng.
Trong lúc chúng tôi nghe ông kể lại thời khóa biểu thường nhật của ông đảo lộn kể từ ngày Bà vào Bệnh viện, người bạn là Bác sĩ lặng lẽ đến đầu giường, cạnh bên những dây nhợ chằng chịt, và những biểu đồ bệnh lý để đọc những con số chi chít trên đó, thỉnh thoảng lại nâng tấm mền mỏng của Bệnh viện quan sát những mạch máu trên tay Bà. Anh không nói gi, nhưng nhìn nét mặt ưu tư cùa anh, chúng tôi có linh cảm những ngày cuối đời của Bà đang được đếm trên những đầu ngón tay.
Còn nhớ hôm đó, giữa mùa Đông, trời mưa tầm tã, tôi phải tập trung tinh thần lái xe, không dám nói chuyện, không dám nghe soft-rock music trên băng tần FM96.5 quen thuộc. Lúc rời bệnh viện, trời đã sụp tối, mặc dù chỉ mới gần sáu giờ chiều. Không phải là dân địa phương, vừa không quen đường, trời vừa tối, lại mưa như trút nước, trời xui đất khiến làm sao thay vì quẹo vào freeway, xe của tôi lại chạy vào ……. một cái nghiã trang ở ven xa lộ 101, mà tôi cũng không biết cho đến lúc thấy cái bệ đá nổi, nơi người ta vẫn để quan tài làm lễ trước khi đưa người qúa cố về với lòng đất. Cả ba chúng tôi đều thấy đó là “điềm gở” nhưng không dám kể lại cho Ông.
Y như rằng sau đó vài ngày, chúng tôi được tin Bà không còn bị dằng co giữa hai bờ sinh tử mà về hẳn với cõi vĩnh hằng. Tối hôm đó, có dịp nói chuyện với một người bạn rất thân của Ba từ Dallas, TX, cũng là một cựu Sĩ Quan QLVNCH cùng thời với ông, tôi kể cho Bác nghe về chuyện chăm sóc Bà rất tình nghiã, rất thủy chung của Ông từ cả thập niên qua. Mặc dù không quen Ông, Bác cũng xin số điện thoại của Ông để gọi đến chia sẻ nỗi mất mát không cùng với một người cùng thời, cùng mặc áo lính, cùng một bên chiến tuyến ngày xưa. Mới thấy tình “huynh đệ chi binh” vẫn còn mặc dù hàng ngũ oai hùng của QLVNCH ngày xưa đã bị “xẩy đàn tan nghé” từ một ngày cuối tháng 4 rất buồn của đất nước.
Chúng tôi đặt một vòng hoa tulip tím là màu Bà thích, có điểm thêm mấy đóa cúc đại đóa màu vàng, và vài nụ hồng đỏ gởi đến phúng điếu, mong mầu sắc tươi thắm của những bông hoa sẽ giúp Ông và con cháu thấy cuộc đời đỡ ảm đạm trước đại tang trong đời. Lúc đến viếng Bà lần cuối ờ nhà quàn, chúng tôi mới thấy cả một rừng hoa đến từ những đồng đội ngày xưa, nhất là những người cùng sát cánh bên ông giữa bom đạn năm nào. Có cả những người đích thân bay đến thăm ông từ rất nhiều tiểu bang khác nhau của nước Mỹ rộng lớn. Họ là bạn vong niên, là đồng đội, cùng đơn vị với ông. Có những người không biết nhiều về Ông, nhưng biết đến tiếng tăm của Ông qua chiến thắng hào hùng của QLVNCH nói chung và Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến nói riêng ở Cổ thành Đinh Công Tráng, Quảng Trị năm xưa, cũng đến thăm Ông và tiễn Bà lần cuối đúng với câu “nghiã tử là nghiã tận”. Dĩ nhiên, cũng như Ông, đa số họ đều đã bước vào hoàng hôn của đời người, nhưng vẫn không quản ngại thời tiết mùa Đông đang làm băng giá hơn một nửa nước Mỹ, không ngần ngại bỏ ra một số tiền không nhỏ, đối với thu nhập của một “senior citizen”, cho một cái vé máy bay round trip chỉ mua trước giờ bay không đến một ngày. Tất cả những điều đó hẳn đã an ủi Ông rất nhiều, đã đền bù cho Ông về những gian khổ, những hiểm nguy ông đã chịu đựng ở chiến trường năm xưa.
Giữa những tràng hoa phúng điếu tươi thắm, Bà nằm an nghỉ trong chiếc áo dài nhung màu tím đỏ, mà Bà rất thích thủa còn khỏe mạnh, mặt cũng tươi thắm hồng hào như vẫn nằm thiêm thiếp ở nhà từ bao năm qua.
Ngày đưa Bà về lòng đất, chúng tôi phải đậu xe rất xa, và đi bộ giữa trời lấm tấm mưa phùn mùa đông vì đồng đội Ông, những cựu chiến sĩ TQLC mắt sáng, môi tươi ngày xưa, bây giờ gối đã mỏi, chân đã mòn, tóc đã điểm mầu sương khói, vẫn tụ tập về rất đông đủ, như họ vẫn sát cánh bên Ông giữa bom đạn năm xưa. Tôi tự nghĩ nếu tất cả họ đều mặc quân phục, chắc là rất giống cảnh đám tang ở Nghiã Trang Quân đội Biên Hòa thời trước tháng 4 năm 1975. Nhưng điều làm chúng tôi cảm động nhất là Ông, người Sĩ quan QLVNCH năm xưa trong mầu áo hoa rừng, bây giờ trong mầu áo đen của tang phục, đã nghẹn ngào nấc lên nhiều lần khi đọc điếu văn tiễn người bạn đời về bên kia thế giới.
Chúng tôi vẫn tự hỏi, phải chăng ngoài nước mắt khóc thương Bà vĩnh viễn ra đi, còn có nước mắt Ông đã nén vào lòng năm xưa khi thấy đồng đội của mình bị dằng co giữa hai bờ sinh tử, giữa súng đạn vô tình ở chiến trường dạo trước? Dù là nước mắt nào đi nữa, bên cạnh mất mát không thể nào bù đắp được của ông, tình đồng đội là một niềm an ủi rất lớn giúp Ông đứng vững được trong quảng đời còn lại một mình, vĩnh viễn không còn có Bà bên cạnh.
*
"Hàng năm cứ vào mỗi độ cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều" (như Thanh Tịnh đã viết), chúng tôi lại được ông mời đến nhả để hái những quả hồng giòn màu vàng cam, chín tới. Ở tuổi gần 80, răng không còn khỏe như trước, ông không ăn một trái hồng nào, nhưng vẫn chăm bón cây hồng bên hông nhà rất cẩn thận, chỉ để biếu hàng xóm và gọi chúng tôi đến hái về ăn. Dù ông không nói ra nhưng chúng tôi đều biết ông chăm cây hồng rất kỹ vì cây hồng đó do chính tay bà trồng đã mấy mươi năm trước. Từ một cây con yếu ớt, nhỏ xíu ở Home Depot bà mua về, lặng lẽ tưới bón, chăm non mỗi ngày. Cây lớn lên theo ngày tháng, người già đi theo năm tháng. Buồn thay khi cây hồng thành một cây cổ thụ, sum sê bóng mát, cho cả ngàn trái hồng mỗi độ cuối thu đầu đông, bà không cón tri nhớ, rồi không còn hiện diện trên đời.
Mỗi mùa hồng ở Mỹ, chúng tôi được ăn hồng tươi hàng ngày từ cây hồng bên hông ngôi nhà của ông bà, gần một trường Tiểu học ở San Jose. Và mỗi lần nhai những miếng hồng tươi trong miệng, chúng tôi vẫn nghĩ đến chuyện cồ tích Việt Nam ngày xưa "ăn một quả trả ngàn vàng may túi ba gang đem mà đựng", mà tự hỏi không biết mình đã nợ ông bà bao nhiêu ân tình.
Có lần tôi còn nói ra bằng lời:
- Coi vậy mà nhiều khi mình là con người mà còn thua con chim trong chuyện cổ tích.
Độ giòn và vị ngọt thanh của những trái hồng to lớn vừa chín tới hái từ sân nhà ông ngon hơn hẳn những trái hồng mua ở chợ. Ông còn chu đáo mua một cây sào cao khoảng bốn mét, có một cái lồng bằng inox ở phía đầu để giúp chúng tôi không phải leo lên cây, chỉ cần đứng dưới đất để hái được những trái hồng vàng cam to gần bằng trái banh tennis. Đôi lúc chúng tôi bận quá không đến hái hồng được, ông hái hồng đóng thùng gởi qua đường bưu điện cho một vài người bạn thân ở tận miền Đông hay miền Trung Tây của Mỹ gọi là chia sẻ ngọt bùi như những ngày còn là còn là đồng đội trong cuộc chiến bảo vệ tự do cho miền Nam.
Một lần mở cốp xe ở bãi đậu xe của thư viên, nhìn những thùng hồng to tròn chín tới rất hấp dẫn trong xe chúng tôi, có vài người Mỹ đến hỏi:
- Where do your guys buy those delicious persimmons? We love persimmon.
- No we just picked from a tree at a friend’s house. Feel free take some.
Lúc đó là mùa Thanksgiving ở Mỹ, chúng tôi vui vẻ biếu họ một túi hồng, như một lời cảm ơn từ những di dân tỵ nạn, sống bình yên ở một nơi ở không phải là nhà, và đành gởi thân trên quê người như người trồng cây hồng.
Những người nhận hồng cảm ơn rối rít. Lời cảm ơn trở nên chân thành hơn trong mùa lễ Tạ ơn.
Chúng tôi đã chuyển lời cảm ơn đó đến Ông ở phòng khách nhà Ông, và đến Bà trên bàn thờ trong family room.
Người trồng cây đã về ở hẳn bên kia thế giới, phía bờ tử, nhưng cây hồng nhờ được người ở bờ sinh chăm bón rất cẩn thận nên vẫn sừng sững, sum sê, sai trái mỗi độ cuối thu đầu đông. Không chỉ cho trái ngọt mà cây hồng còn cho ân tình giữa hàng xóm với nhau, giữa những ngưòi lính già phải nhận quê người làm quê nhà, và giữa thế hệ sau với thế hệ trước. Ước mong ân tình giữa người với người luôn luôn ngọt ngào như những trái hồng chín tới vào mùa thu ở Mỹ.
Nguyễn Trần Diệu Hương
(Nguyễn Trần Diệu Hương là một trong những tác giả Viết Về Nước Mỹ kỳ cựu, được bạn đọc quí mến. Tham dự từ năm đầu, với nhiều bài viết đặc biệt, cô đã nhận giải Danh Dự năm 2001, và sau đó là giải vinh danh tác giả năm 2005 với bài viết “Còn Đó Ngậm Ngùi.” Bài viết mới nhân mùa Trung Thu được tác giả ghi là “Để trân trọng tưởng nhớ phi hành gia Neil Amstrong 1930-2012”)
Biển trong những đêm trăng tròn là một trong những tác phẩm hoàn thiện nhất của Thượng đế. Cái đẹp của biển vừa dịu dàng, vừa vĩ đại. Cái đẹp có một không hai đó được ánh trăng tròn đêm mười sáu âm lịch trang điểm thì nhìn hoài không bao giờ chán, vì càng thấy rõ cái đẹp thiên nhiên vượt trội tất cả công trình kiến trúc nhân tạo.
Lớn lên ở miền "thùy dương cát trắng” Nha Trang, những đêm trăng tròn thời còn ở Trung học, chúng tôi thường kéo nhau ra bãi biển ngắm trăng, thả hồn mơ ước đủ thứ chuyện trên đời. Mặt trăng dễ thương và hiền dịu hơn mặt trời vì mắt thường có thề nhìn thẳng vào trăng. Chúng tôi thường ngồi gần chỗ tiếp giáp biển và cát để cảm thấy mình đang ngồi giữa biển trời bao la. Những đêm mùa hè trời trong, mặt trăng tỏa ánh sáng xuống , mặt biển như được dát vàng, đẹp không bút mực nào tả được.
Có lần cả nhóm đang ngồi bên mấy chiếc xe đạp cũ đã bạc màu, im lặng nhìn trăng, một em bé khoảng 10 tuổi đến mời chúng tôi mua đậu phụng luộc. Lúc đó vào khoảng đầu thập niên 80, thời điểm khốn khó nhất về cả vật chất lẫn tinh thần của người dân miền Nam sau chiến tranh, học trò Trung học thường không có tiền, cả bọn vét cả túi quần lẫn túi áo mua giúp em mấy lon đậu phụng còn lại trong cái rỗ hàng cũng nhỏ như em. Em bé thấy chúng tôi chăm chú nhìn trăng, lại bán hết hàng nên cũng ngồi bệt trên cát cạnh chúng tôi, trở thành "một tín đồ" mới của biển và trăng. Khuôn mặt với đôi mắt sáng thông minh, còn nét ngây thơ mặc dầu phái sớm ngược xuôi kiếm sống, rạng rỡ dưới ánh trăng, gật gù đồng ý với chúng tôi:
- Nhìn kỹ thấy trăng tròn đẹp thiệt !
Chúng tôi mời em cùng ăn đậu phụng luộc, em khéo léo từ chối :
- Các anh chị ăn đi, ngày nào em cũng luộc đậu đi bán, ngửi thấy mùi đã ngán !
Chúng tôi "đe dọa" nếu em không ăn đậu sẽ không cho em ngồi cùng "hội ngắm trăng rằm" của chúng tôi. Có lẽ cũng bị chinh phục trước biển và trăng, hay vì đi bộ bán hàng cả buổi đã mỏi chân, em vui vẻ ngồi ăn đậu phụng luộc. Chúng tôi thưởng thức vị ngọt bùi của đậu bằng miệng và thưởng thức vẻ đẹp thanh thoát của trăng bằng mắt.
Đó là một đêm đầu mùa hè, trời trong vắt, trăng lên cao, chừng như cũng mỉm cười với bầy con nít chưa đến tuổi "em ước mơ mơ gì tuổi mười lăm, tuổi mười sáu." nhưng đã có sự khôn ngoan đi trước tuổi đời như trái cây còn xanh bị hái sớm đem vùi vào thùng gạo để phải chín sớm.
Ngồi nhìn trăng rất lâu từ lúc trăng mọc lên từ từ nhô lên như trồi lên từ biển đến lúc trăng lên cao, chúng tôi nghĩ đủ thứ về trăng, từ chị Hằng và chú Cuội trong huyền thoại Tết Trung thu, đến nhà khoa học Neil Amstrong, người Mỹ, phi hành gia của phi thuyền Apollo 11, người đầu tiên đặt chân lên mặt trãng, ngày 21 tháng 7 năm 1969. với câu nói nổi tiếng cả thế giới
"Đó là một bước nhỏ của một người nhưng là một bước tiến vĩ đại cho nhân loại"
Lúc đó chúng tôi chỉ biết câu nói lẫy lừng của ông Amstrong, người có tài năng và diễm phúc đặt chân lên mặt trăng đẹp huyền ảo, dịu dáng.
Sau này, sống ở Mỹ, tìm hiểu về những hoạt động của NASA (National Aeronautics and Space Administration) , tôi mới biết và học hỏi thêm ở ông Neil Amstrong nhiều điều.
Chẳng hạn ông là một nhà khoa học giỏi, nổi tiếng, nhưng rất khiêm nhường, không muốn sống trong vùng danh lợi lao xao của đám đông. Mọi người đều nhận ra cá tính đáng quý này, vì vậy trong phi hành đoàn ba người cùa Apollo 11, NASA đã chỉ định ông Amstrong là người bước ra và đặt bước chân đầu tiên trên mặt trăng tháng 7 năm 1969.
Chẳng hạn ông có bằng lái máy bay khi ông mới 16 tuổi, trước cả lúc ông có bằng lái xe. Chẳng hạn ông cũng là một hướng đạo sinh kỳ cựu, đã mang theo huy hiệu hướng đạo thế giới theo với ông trong chuyến du hành nổi tiếng cùa phi vụ Apollo 11.
Chẳng hạn ông cũng yêu biển như yêu không gian và đã có thời phục vụ qua vai trò một phi công trong Hải quân Mỹ trước khi trở thành nhân viên của NASA.
Ông qua đời ngày 25 tháng 8 năm 2012 tại quê nhà, tiểu bang Ohio, ở tuổi 82 để lại sự ngưỡng mộ và thương tiếc cho cả triệu người trên thế giới, nhất là những người biết về phi vụ Apollo 11.
Theo ước nguyện của ông, thân xác của người đầu tiên đặt chân lên mặt trăng được hỏa thiêu và tro tàn đã được rải ở biển Đại Tây dương với nghi thức thủy táng trang trọng từ một chiến hạm của Hải quân Mỹ vào một ngày cuối hè đầu thu, chắc là để phi hành gia vẫn được "thấy" trăng ít nhất là vào mùa trời trong, biển lặng.
Thay mặt người quá cố, gia đình ông đưa ra thông báo:
"Với những người hỏi là họ có thể làm gì để vinh danh Neil, chúng tôi chỉ có yêu cầu đơn giản: trân trọng, noi theo những đóng góp của ông cho ngành không gian; và lần tới khi bạn bước ra khỏi nhà trong một đêm trời trong, thấy mặt trăng nhìn xuống mỉm cười với bạn, hãy nghĩ tới Neil và nháy mắt với ông"
Chắc chắn là tôi sẽ làm được những điều đó, sẽ luôn trân trọng những đóng góp cho khoa học, đặc biệt là ngành không gian, của Neil Amstrong từ lúc ông còn là một phi công trẻ trong Hải quân Mỹ, đến lúc là một phi hành gia, rồi là một giáo sư dạy ở phân khoa kỹ thuật không gian trường University of Cincinnati, Ohio; sẽ cố gắng luôn luôn sống khiêm nhường như ông (tương tự kiểu sống "ta dại ta tìm nơi vắng vẻ " của cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm). Mỗi lần có dịp thấy trăng, dù từ cửa sổ nhà hay qua cửa kính xe, tôi sẽ nháy mắt với trăng vài lần tưởng như mình đang cúi chào ông Neil Amstrong, và chào cả sự chịu đựng hồn nhiên, dễ thương đến tội nghiệp của một em bé Việt Nam bán đậu phụng luộc có cặp mắt thông minh ở bãi biển Nha Trang năm nào.
Thời gian còn ở trại tỵ nạn Pulau Bidong, thỉnh thoàng tôi vẫn mon men ra bãi biển ngắm trăng, trăng mười sáu vẫn tròn, vẫn đẹp, thời tiết cũng là thời tiết nhiệt đới, nhưng biển trời Mã Lai hình như không có hồn như biển trời quê hương. Cũng như bây giờ, ven biển California vẫn là Thái bình dương nhưng Thái bình dương ở Bắc Mỹ lạnh cóng quanh năm không ấm như Thái bình dương ở Đông Nam Á, nên chúng tôi không còn thú ngồi hàng giờ ở bãi biển ngắm "đèn trời" vào những đêm trăng rằm .
Tuy vậy “tình yêu” của tôi với trăng vẫn còn nguyên. Nên có những đêm trăng rằm mùa hè, tôi vẫn lái xe về phía hướng trăng mọc ít nhất cũng năm, bảy dặm, và cẩn thận chạy ở những con đường nhỏ , lane bên phải, để có thể thả gẩn hết tâm hồn vào trăng mà không làm phiền người lái xe phía sau. Tôi còn cẩn thận lau kính xe bằng chất lỏng Windex cả bên ngoài lẫn bên trong để có thể nhìn trăng rõ ràng, thấy được cả những chấm đen đồi núi trên hành tinh dễ thương này.
Rất ngưỡng mộ phi hành gia Neil Amstrong, sau khi ông mất, chúng tôi có thêm lý do để yêu trăng và không bỏ lỡ dịp ngắm trăng vào mùa trời trong, "Chị Hằng" không bị mây che.
Trung thu năm 2012, chưa đến 49 ngày kể từ khi ông Amstrong mất, tôi sẽ nhìn trăng lâu hơn, tường nhớ đến người đầu tiên đặt chân lên mặt trăng, nhớ đến "mối tình chung" của chúng tôi với biển và trăng. Và chắc là tôi sẽ "nháy mắt" nhiều lần với Neil Amstrong, với trăng, và cả với biển trời Nha Trang yêu dấu...
Nguyễn Trần Diệu Hương