Bài Viết 6

Văn học và đời sống dưới mắt Nhà Văn Võ Hồng

Quê hương xa mà gần

Có phải ngạc nhiên?

Bụt nhà vẫn thiêng

Khỉ ơi

Văn học và đời sống dưới mắt Nhà Văn Võ Hồng

Từ lúc đọc tác phẩm Nhánh rong phiêu bạt của nhà văn, nhà giáo Võ Hồng, một tác phẩm được dùng làm phần thưởng trong các kỳ thi Đố vui để học cho học sinh trước năm 1975, Thúy không còn thấy tên mình chỉ là thị Thúy, cụt ngủn, bình dân; không đẹp như Quỳnh Hoa, Thu Vân, Thanh Thủy..., không kiêu sa như Tố Nga, Đài Trang, Huyền Trân...Mà ngược lại Thúy tự hào là tên mình đã được nhà văn Võ Hồng đưa vào văn học sử qua Nhánh rong phiêu bạt.

Nhân vật chính của Nhánh rong phiêu bạt cũng tên Lê Thị Thúy, cũng 12 tuổi như chúng tôi lúc đó, vào những ngày cuối của chiến tranh.

Không phải mỗi Thúy, cũng xinh đẹp, cũng con nhà giàu như nhân vật Lê Thị Thúy, mà cả lớp đều mơ có ngày được gặp và nghe nhà văn Võ Hồng dạy dỗ như ông đã từng dạy nhiều thế hệ ở các trường Trung học ở Nha Trang.

Ước mơ nhỏ nhoi, rất dễ thực hiện vì nhà văn Võ Hồng, thuộc thế hệ của ông bà chúng tôi, ở đường Hồng Bàng, một con đường nhỏ, yên tỉnh, gần biển Nha Trang. Vậy mà vĩnh viễn chẳng bao giờ đạt được.

Hồi đó, chúng tôi đạp xe đi qua, đi lại nhà ông ít nhất là mỗi tháng một lần, cả chục cặp mắt cùng nhìn vào cổng nhà ông. Căn nhà nhỏ ẩn mình sau hàng rào hoa tóc tiên như một tấm lá chắn thiên nhiên che chở bảo vệ nhà văn trước một xã hội đảo lộn sau tháng 4 năm 1975.

Một vài lần chúng tôi dừng xe trước cổng nhà ông, định kéo chuông gọi ông như mấy chữ ghi bằng sơn đen trên một tấm thiếc nhỏ bằng nửa cuốn sách treo lủng lẳng bên lề cổng "kéo dây gọi Võ Hồng". Miếng thiếc được treo bằng một sợi dây dù chạy từ cái cổng nhỏ bò qua những nhánh cây lêkima vào đến cửa sổ nhà; đầu dây bên kia là 3 cái lon sữa bò rỗng cột vào nhau.

Nhiều lần như vậy, nhưng chưa lần nào chúng tôi dám "kéo dây gọi Võ Hồng" vì nếu có hân hạnh được ông cho vào nhà, cũng chỉ chào mà không biết nói chuyện gì với một nhà giáo, nhà văn kỳ cựu đáng tuổi ông ngoại của mình.

Văn phong của Võ Hồng là ngôn ngữ của một nhà giáo. Dưới cả hai thể loại truyện ngắn và truyện dài, ông gởi những lời khuyên của một nhà mô phạm đến độc giả. Có những chuyện ngắn về khu rừng với đủ muôn thú sư tử, cọp, nai, sóc… người đọc thấy rõ xã hội loài người với đủ cá tính, đủ trình độ. Có một truyện ngắn về cỏ và cây, nhưng người đọc thấy rõ cây bách tùng được ông gởi gắm hình ảnh một người lãnh đạo, cây chùm rụm (chùm ruột?) mang tính cách của một công dân bình thường lặng lẽ góp phần xây dựng đất nước...

Truyện ngắn "Vĩnh biệt cây trứng cá" lấy được những giọt nước mắt của tôi. Câu chuyện rất đơn giản: có một cậu bé lớn lên cùng với cây trứng cá, một loại cây rất sai trái ăn không ngon nhưng trái non màu xanh có thể làm đồ chơi cho trẻ con. Tuổi thơ của cậu bé êm đềm bình yên dưới bóng mát to rộng của cây trứng cá. Cây trứng cá chứng kiến cậu lớn lên với một tuổi thơ bình yên, hạnh phúc; như một chứng nhân, một người bạn trung thành của cậu. Lúc cây trứng cá bị đốn đi, cậu âm thầm khóc như mất đi một người thân. Tôi mê nhất truyện này vì chừng như nhà văn nghe tôi kể lại tâm trạng khi tôi chia tay với cây trứng cá, rồi giúp tôi trải lòng trên trang sách. Còn hơn thế, tuổi thơ hạnh phúc với bóng râm của cây trứng cá với bóng mát chở che của Ba Mẹ luôn luôn nằm trong lòng tôi mặc dù tôi đã phải vĩnh biệt cả Ba lẫn cây trứng cá.

Mỗi một truyện ngắn của ông trang trải nỗi lòng tâm sự của ai đó. Có lẽ vì vậy ai đã từng đọc qua một tuyển tập truyện ngắn của Võ Hồng đều thấy NHÀ VĂN rất tinh tế và mặc dù chỉ sống trong góc một căn phòng nhỏ nằm trên đường Hồng Bàng ở Nha Trang, ông đã viết giùm được tâm trạng của cả người Việt trong nước lẫn người Việt lưu vong.

Ngẫu nhiên, ông đã tài tình thấy được Lê Thị Thúy của chúng tôi sẽ trở thành Nhánh rong phiêu bạt. Chỉ có khác là "nhánh rong" trên trang sách của Võ Hồng phiên bạt từ tuổi 12 và chấm dứt phiêu bạt trong vòng vài năm. Nhánh rong của chúng tôi, và cả chính tôi, cùng cả triệu người Việt Nam trở thành những "nhánh rong phiêu bạt" cả nhiều thập niên, không biết đến bao giờ mới hết đời phiêu bạt?

Võ Hồng không chỉ thành công trong vai trò một nhà văn, mà những tác phẩm để lại của ông sẽ làm cho Thầy Võ Hồng là một nhà giáo có đông học trò nhất. Không một hội cựu học sinh sinh viên nào lưu lạc ở ngoại quốc không biết đến tự truyện Nửa chữ cũng Thầy của Võ Hồng. Và đã theo gương ông, theo những lời dạy của của ông trải dài trên những trang sách. Ngày nào nhà văn Võ Hồng còn có thêm độc giả, ngày đó nhà giáo Võ Hồng còn có thêm học trò mới.

Cuối tháng 3 năm nay chia tay ông, văn học Việt Nam mất đi một nhà văn mô phạm và chúng tôi mất đi một bậc thầy khả kính trong văn học lẫn đời sống.

Santa Clara, tháng 4/2013

Nguyễn Trần Diệu Hương

Theo VOA

Quê hương xa mà gần

Bạn thân mến, nhiều lần bạn hỏi tôi:

"Tại sao không về thăm quê cha đất tổ và nơi chôn nhau cắt rốn một lần?"

Tôi cười trừ vì không có câu trả lời thích đáng cho người hỏi và ngay cả chính mình.

Bên nội tôi người Bắc, hầu hết gia đình bên nội di cư vào Nam từ tháng 7 năm 1954, thời điểm mà sông Bến Hải, cầu Hiền Lương là lằn ranh biên giới quốc cộng. Bên ngoại tôi người Huế nhưng khi tôi ra đời thì ông bà ngoại đã sống ở Nha Trang. Vì vậy tôi không có dịp về quê nội hay quê ngoại nghỉ hè như tụi bạn cùng lớp ngày còn nhỏ.

Tôi chào đời ở Quy Nhơn, quê hương của vua Quang Trung Nguyễn Huệ, nhưng chỉ ở đó vỏn vẹn 3 tuần rồi được Mẹ bồng, theo Ba đổi về Nha Trang .

Do vậy, tôi không có một khái niệm nào về Quy Nhơn mặc dù thời đi học khi biết tôi được sinh ra ở Quy Nhơn, tụi bạn cùng lớp luôn trêu chọc là

"Ai về Bình Định mà coi,

Con gái Bình Định múa roi đi quyền"

(trong khi tôi thuộc loại nhiều khi không mở nổi cái nắp của hủ dưa chuột muối "pickle" vẫn bày bán trong các chợ ở Mỹ.)

Tuổi thơ của tôi ở Biên Hòa, gần căn cứ Không quân, thời chiến tranh trước năm 75 hay bị VC pháo kích. Ba tôi dùng cái bể xây bằng xi măng chứa nước trong nhà làm "hầm trú ẩn”. Cái bể hình khối chữ nhật, cao khoảng một thước, dài một mét rưởi và chiều rộng khoảng tám tấc. Mặt trên được che bằng một tấm ván dày hình chữ nhật có cùng chiều rộng với cái bể chứa nước, chiều dài thì chỉ khoảng một thứơc. Trên tấm ván che bể nước có rất nhiều bao cát nhỏ chồng chất lên nhau, ít nhất là cũng năm lớp bao cát. Từ ngày được "biến cải" thành hầm tránh pháo kích, cái hồ luôn khô cạn, nước được chứa trong một cái “thùng phi” lớn.

Thời thơ dại của tôi, chỉ có một lần bị người lớn đánh thức, mắt nhắm mắt mở được Mẹ hay Bà Nội nhấc lên đặt vô "hầm trú ẩn". Hơi lạnh từ gạch và xi măng của thành hồ làm tôi tỉnh ngủ, nhận ra trời đêm vẫn sáng vì ánh hỏa châu. Sáng hôm sau, người ta vẫn sinh hoạt bình thường, vẫn "trôi theo dòng đời" như chiến tranh chưa hề về rất gần thành phố đêm qua.

Trong bối cảnh đó, tôi chưa bao giờ được về thăm quê hương của mình.

Lớn lên, một lần đi thăm Ba trong "tù cải tạo" ở Gia Trung, Gia Lai Kom Tum, Mẹ và tôi phải "ngủ đổ" ở Quy Nhơn. Đó là lần đầu tiên, cũng là lần duy nhất cho đến bây giờ, tôi được thấy nơi chôn nhau cắt rốn của mình . Đó là một đêm bị "luân phiên cúp điện theo định kỳ", bầu trời Quy Nhơn tối đen , chỉ có những ngọn đèn dầu heo hắt, buồn bã như tương lai cùa tôi lúc đó.

Mãi đến bây giờ, Quy Nhơn, trong tôi, vẫn mù mờ, buồn hiu hắt…

Và có lẽ vì vậy, thời gian sống ở quê ngưòi dài hơn thời gian sống ở quê mình,dù đã về Việt Nam thăm thân nhân 4 lần , tôi chưa hề ra Bắc thăm quê nội, hay về Huế thăm quê ngoại.

Tôi không muốn chứng kiến một Nam Định hỗn độn, người ta đạp lên nhân nghĩa để sống còn. Quê nội với tôi phải đẹp và êm đềm như lời kể của Bà Nội năm xưa, phải có những người sâu sắc (dù nghèo và bất đắc chí) như nhà thơ Trần Tế Xương.

Tôi không dám ra Huế sợ làm mất đi hình ảnh thơ mộng của cầu Trường Tiền "sáu vài mười hai nhịp" có những cô nữ sinh Đồng Khánh ngây thơ, trong trắng, đội nón đạp xe ngang cầu. Tôi muốn giữ hình ảnh cuả những "o" bán đậu hủ, bán cơm hến dù nghèo vẫn chân chất , đàng hoàng, vẫn tha thướt trong tà áo dài cổ truyền, ngay cả lúc phải quang gánh oằn vai, ngược xuôi kiếm sống.

Tôi sợ mình bớt yêu quê hương khi thấy cả nước sông Hương lẫn những cô lái đò không còn tinh khiết như tôi đã được đọc trên những trang sách.

Và như vậy xin tạ tội với tổ tiên vì tôi gắn bó với Santa Clara, nơi tôi sống lâu hơn quê nhà; xin tạ tội với ông bà, tôi chưa một lần về thắp một nén hương tưởng nhớ trước bia mộ tiền nhân. Giống như loài chim thiên di, tôi luôn nhớ cội nguồn và có một quê hương thân yêu trong tâm tưởng.

Và xin giải bày với bạn tại sao tôi chưa một lần về thăm quê hương. Xin hãy để tôi luôn nghĩ quê hương là nơi đẹp nhất trên đời....

Nguyễn Trần Diệu Hương

Santa Clara, CA July /2012

Theo VOA

Có phải ngạc nhiên?

Đầu mùa Thu, lá trở vàng như quy luật thiên nhiên. Ở quê nhà, Cô giáo Việt văn ngày xưa là một trong những chiếc lá vàng lìa cành đầu tiên.

Cô về hưu gần hai mươi năm và sống quạnh quẽ ở một góc Saigon , nhưng lúc nào Cô cũng rạng rỡ nụ cười trên môi. Vì bên cạnh Cô có đồng nghiệp, và học trò cũ. Một vài người trông còn đứng tuổi hơn Cô, nhưng có dịp gặp Cô họ vẫn cung kính như xưa.

Ngày Cô trở bệnh nặng, Cô nhắn tin cho thân nhân ờ Pháp về. Người thân của Cô vội vã về ngay nhưng đường xa ngàn dặm, cũng phải mất hai ngày mới đến. Đồng nghiệp cũ, học trò xưa, người nhỏ nhất tóc cũng chớm đổi màu, tận tình chăm sóc Cô từ nhà vào bệnh viện. Rồi bệnh viện bó tay, Cô trờ về nhà. Ngôi nhà không còn trống vắng, vì đầy tình nghĩa ngày xưa. Học trò ờ VN gởi E mail cho bạn học ở khắp nơi từ Châu Úc, Châu Âu, qua Châu Mỹ báo tin "Cô chỉ xin Phật cho Cô được sống thêm một ngày để gặp được cháu Cô từ Pháp về".

Học trò xưa lưu lạc quê người, mờ mắt chạy đua theo kim đồng hồ vì nợ áo cơm , nhưng vẫn nhạt nhòa nước mắt thương Cô.

Ngày đưa tang Cô, hàng xóm kinh ngạc vì đó là đám ma lớn nhất vùng. Không có lễ truy điệu cùa nhà nước, không có kèn trống xênh xang, nhưng có những con mắt đỏ hoe cùa "học trò già”, có nỗi ngậm ngùi của đồng nghiệp. Những tràng hoa phúng điếu đến từ khắp nơi trên thế giới, không rực rỡ màu sắc mà chì mỗi một màu trắng như màu áo học trò.

Học trò ờ VN đọc điếu văn ,thay mặt bạn bè khắp thế giới , dù ở góc nào trên địa cầu cũng chân thành thương Cô, một nhà giáo mẫu mực.

Tình nghĩa thầy trò còn thấy ở một lề đường bụi bặm của Tây Ninh 30 năm trước. Có người học trò cũ trong y phục chỉnh tề của nhà giáo đi chấm kỳ thi tốt nghiệp Trung học. Một khoảnh khắc tình cờ, từ cửa sổ phòng coi thi nhìn ra lề đường, người học trò xưa , lúc đó là phó chủ khảo của Hội đồng chấm thi, chợt nhận ra bóng dáng ông Thầy dạy Toán của mình năm lớp 9 ở Biên Hòa ngồi ở lề đường bên kia đối diện trước cổng trường, đang lui cui sửa một đôi giày cũ.

Lòng chùng xuống, nhưng nhà giáo trẻ đành phải đợi đến cuối buổi thi. Trưa hôm đó, xong mọi công việc, thay vì đi ăn trưa, anh băng qua đường đến chào Thầy:

- Thưa Thầy, em chào Thầy.

Ông vá giày, đen đủi vì nắng mùa hè, nhem nhuốc vì bụi đường (và cả "bụi đời" sau biến cố tháng 4/75) nhưng đôi mắt vẫn sáng, điềm tĩnh như phong cách nhà giáo trước tháng 4/75, ngước lên ngạc nhiên lẫn vui mừng:

- A! Thanh đó hả? Làm gì ở đây? Chờ Thầy một chút, phài vá xong đôi giày này để một giờ người ta đến lấy.

Người học trò cũ ngồi xuống lề đường, bên cạnh chiếc thùng gỗ đựng đồ nghề sửa giày, nhem nhuốc vì bụi đường, đứng chơ vơ bên lề đường như người chù cùa nó.

Anh thương Thầy lắm, cứ áy náy không làm gì được để giúp Thầy. Cái chemise trắng cùa anh nổi bật giữa màu sắc xám xịt trong "gian hàng lưu động" ở lề đường của ông Thầy cũ.

Chì tám năm trước, Thầy và anh cùng mặc áo trắng. Trong lớp học, Thầy đứng trên bục giảng, anh ngồi ở bàn đầu nghe Thầy dạy cách giải phương trình bậc hai. Bây giờ Thầy mặc cái áo kaki màu olive sờn cũ bạc màu, cũng thay đổi như xã hội đương thời. Duy có đôi mắt vẫn tinh anh, vẫn còn là đôi mắt của một nhà mô phạm. Bụi đường bay tung tóe không làm đôi mắt Thầy vẫn đục.

Khi người khách đến lấy giày, ông ta tưởng anh là khách hàng, khuyên anh bằng một thứ ngôn ngữ mới du nhập vào miền Nam:

- Này, ngồi đợi như thế thì chỉ có "rách việc". Vừa phí thì giờ vừa không được vá giày kỹ lưỡng.

Anh nhũn nhặn trả lời:

- Thưa không, tôi ngồi đợi Thầy tôi làm việc xong để được thăm Thầy.

Ông khách tròn mắt ngạc nhiên và nhận xét thật lòng:

- Thầy trò miền Nam các anh quý hóa thật!

Hôm đó khi Thầy làm xong công việc, anh chì còn kịp cầm tay Thầy ân cần thăm hỏi. Không dám dốc nửa tháng tiền lương của một "giáo viên Toán cấp 3" đặt vào tay Thầy vì Thanh biết Thầy sẽ không bao giờ nhận.

Ba mươi năm sau ngày gặp Thầy ờ lề đường Tây Ninh, Thanh vẫn dạy Toán cho học trò lớn hơn ở bậc Đại học. Và Thầy tóc đã ngã màu sương khói, được hệ thống an sinh xã hội ở Mỹ chu cấp trong giai đoạn hoàng hôn của cuộc đời.

Thanh kề chuyện cho một người học trò cũ nghe. Cô đã so sánh nỗi kinh ngạc của người khách hàng ở lề đường của Thầy năm xưa với sự ngạc nhiên của cả xóm ngày tang lễ Cô giáo dạy Việt văn thời Trung học.

Nếu người ta biết đến những câu nói truyền miệng ngày xưa "Nhất tự vi sư, bán tự vi sư" hay "Trọng Thầy nới được làm Thầy" thì trong cá hai trường hợp đều không có sự ngạc nhiên. Chuyện bình thường trong xã hội này không dưng trở thành nỗi ngạc nhiên trong một thể chế khác. Hình như có những chiếc lá vàng may mắn đã bay lượn trong hoan ca trước khi về với đất...

Nguyễn Trần Diệu Hương

Theo VOA

Bụt nhà vẫn thiêng

Truyện dài đầu tiên tôi đọc trong đời là tác phẩm "Bồn lừa" của nhà văn Duyên Anh. Trước đó, tôi đọc những truyện, không dài cũng không ngắn, trên những tác phẩm Tuổi hoa của các tác giả còn rất trẻ, nhiều người trong số họ vẫn còn ôm sách vở đến trường mỗi ngày. Trong đó, tôi nhớ và thích nhất tác phẩm "Nhóm lửa" và "Chiếc lá thuộc bài " cùa cùa hai "nhà văn học trò" khá nổi tiếng với các độc giả teenagers.

Lúc đó, chưa đến mười tuổi, tôi không đủ khôn để nhận xét bút pháp và lối viết của các nhà văn, dù đã lão luyện trong nghề, sống bằng tiền bản quyền, hay chỉ mới vương mang nghiệp văn chương, chỉ có tiền nhuận bút đủ để dẫn bạn bè đi coi movie ở các rạp hát sang trọng ở Saigon đầu thập niên 70. Nhưng dấu ấn của các tác phẩm đó và bút pháp của các tác giả đã để lại một ấn tượng sâu đậm trong tôi. Có thể vì đó là những truyện rất hay, các tác giả đả viết bằng cả tấm lòng, không phải chỉ vì tiền nhuận bút; có thể vì đó là có thể vì đó là những chuyện dài đầu tiên tôi được đọc trong đời.

Lên Trung học, một giáo sư dạy Công dân đọc cho chúng tôi nghe bản dich Việt ngữ tác phẩm “Le Petit Prince” cùa Antoine de Saint-Exupéry mỗi tuần vài trang. Cuối năm học, chúng tôi chỉ hiểu lờ mờ những triết lý được gởi theo những ý nghĩ của ông Hoàng tử trẻ thơ, nhưng trong tâm hồn chúng tôi vẫn có một góc nhỏ cho “Hoàng tử bé”.

Những năm cuối Trung học, lịch sử đất nước sang trang, đời sống đảo lộn, như một con đà điểu chúi đầu vào cát sa mạc để trốn những đe dọa của thiên nhiên, tôi chúi đầu vào sách vở để thấy đời vẫn còn dễ thương. Đó là lúc tôi dành một mãng lớn "tình yêu văn chương" cùa mình cho nhà văn Gerald Gordon và đứa con tinh thần nổi tiếng khắp thế giới của ông “Let the day perish”, bản dịch Việt ngữ là "Hãy để ngày ấy lụi tàn".

Vào Đại học ở Mỹ, tôi được học “Uncle Tom’s Cabin” của nhà văn Harriet Beecher Stowe trong một lớp Triết học, và “Of Mice and Men” của nhà văn John Steinbeck trong một lớp Văn học. Tấm lòng của các nhà văn và lối giảng dạy nhiệt tình của các vị giáo sư ở SJSU lúc đó đã đặt cả "Túp lều của chú Tom" lẫn"Chuột và Người" vào tâm hồn tôi.

Cũng ở môi trưởng tự do cùa quê hương thứ hai, tôi được đọc “One Day in the Life of Ivan Denisovich” để thấy là tấm lòng bao la của Aleksandr Solzhenitsyn. Nếu Solzhenitsyn ra ứng cử Tổng thống, chắc chắn là tôi sẽ tự nguyện vận động tranh cử cho NHÀ VĂN tài hoa này.

Như bất cứ một người thích đọc nào, tôi cũng tập tành viết lách từ thời thơ dại, dù chỉ có một độc giả duy nhất là chính mình. Không muốn, nhưng bằng một cách nào đó, bút pháp của các nhà văn tôi thích đã ảnh hưởng đến lối viết của tôi. Văn phong của họ đã thầm sâu vào tiềm thức của tôi dù tôi chưa một lần được gặp họ, chỉ mới "văn kỳ thanh bất kiến kỳ hình".

Gần hai mươi năm nay, từ khi xong "nợ đèn sách", dù vẫn còn tất bật với "nợ áo cơm", dù chưa bao giờ dám mơ tưởng mình là nhà văn, tôi vẫn dành thời gian cho hai mươi bốn chữ cái kỳ diệu đã giúp nhân loại tiến bộ không ngừng.

Dù chỉ viết lách lăng nhăng, chẳng đâu vào đâu, thỉnh thoảng tôi cũng nhận được một vài lời khen từ độc giả ở khắp nơi. Những lúc như vậy, tôi vẫn thầm cảm ơn các NHÀ VĂN Việt Nam: Duyên Anh, Nhã Ca, Mai Thảo...; các NHÀ VĂN Mỹ John Steinbeck, Harriet Beecher Stowe; NHÀ VĂN Pháp Antoine de Saint-Exupéry, NHÀ VĂN Nga Aleksandr Solzhenitsyn, và NHÀ VĂN Nam Phi Gerald Gordon. (Tôi muốn dùng chữ NHÀ VĂN viết hoa để nhắc đến những cây bút kể trên, để phân biệt với chữ nhà văn viết chữ nhỏ cùa những ‘nhà văn tự phong “hay được bạn bè thân thiết 'tấn phong" một cách hào phóng).

Các NHÀ VĂN với năng khiếu bẩm sinh, với cảm xúc trước một sự việc nào đó đã sáng tạo ra những đứa con tinh thần "sống lâu" ít nhất cũng vài thế kỳ và có một sồ tác phẩm có thể đã ở trong lòng cả chục và có khi cả trăm thế hệ độc giả.

Một lần, tôi nhận được món quà giáng sinh sớm và có giá trị cũng liên quan đến một NHÀ VĂN. Đó là một ngày trời lạnh se sắt, đầy sương mù, tôi được một người bạn thân (cũng là một người rất thích "Of Mice and Men" cả trên sách vở lẫn trên màn ảnh) đưa đến thăm nơi an nghĩ ngàn đời của John Steinbeck ở Salinas, California nhân ngày ông mất, 20 tháng 12.

Không biết di ảnh của John Steinbeck hay cái bình đựng tro cốt cùa ông nằm giữa những người thân yêu đã làm chúng tôi mang quê nhà xa xôi vào những trang giấy, như trong các tác phẩm của nhà văn tài hoa này luôn có hình ành Salinas, nơi ông sinh ra và lớn lên.

Không lâu sau đó, tôi thấy mình không được trải qua thời niên thiếu ở quê hương, không bao giờ đưa được quê nhà vào lòng người đọc một cách tài tình như John Steinbeck đã đưa Salinas vào văn chương (và cả điện ảnh) hay như Duyên Anh đã đưa Thái Bình vào lòng cả trăm ngàn độc giả ở miền Nam.

Hai NHÀ VĂN này tài hoa đến nỗi rất nhiều độc giả của họ (mà chúng tôi là một điển hình) đều xin nhận cả Salinas và Thái Bình làm quê hương.

Mãi về sau, sau này có dịp đọc nhiều hơn, tôi nhận ra rằng quê hương luôn phảng phất trong các tác phẩm của các NHÀ VĂN. Quê ngoại với tôi đẹp hơn nhiều và rất rõ nét từng bụi cỏ, gốc cây, từng nhịp cầu, ngõ ngách (mặc dù tôi chưa bao giở được về thăm Huế) nhờ các tác phẩm của nhà văn Nhã Ca. Và Nha Trang, thành phố nơi tôi lớn lên, êm đềm, thân thiết hơn; từng hạt cát, viên sỏi trên đường nằm lại trong lòng tôi qua các tự truyện của nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng (cũng là Thầy dạy Triết cho các đàn anh đàn chị ở trường Ngô Quyền xưa).

Từ lúc nào không nhớ, gần đây khi ngồi vào gõ keyboard viết bất cứ đề tài nào, quê hương vẫn phảng phất đâu đó. trên những trang giấy vụng về, thô sơ cùa tôi. Có quê hương trong bài viết tức là có tấm lòng, và có tấm lòng là không ít thì nhiều cũng có những độc giả trung thành.

Càng có nhiều độc giả, tôi càng cảm ơn các NHÀ VĂN đã dạy cách viết văn gián tiếp cho tôi và các Thầy Cô dạy Quốc văn suốt thời đi học đã trực tiếp dạy tôi cách viết văn.

Và như vậy, Quê hương và Bụt nhà rất thiêng trong thế giới văn chương chữ nghĩa.

Nguyễn Trần Diệu Hương

KHỈ ƠI

Rừng thưa xanh ngát trên một ngọn đồi thoai thoải màu nâu của phù sa, ở đây khỉ không sống hàng đàn, thỉnh thoảng người ta thấy vài ba chú khỉ thấp thoáng dưới bóng cây. Loại khỉ này cũng leo thoăn thoắt, nhưng không leo cây mà leo đồi. Khỉ ăn đủ thứ, mê nhất là trái cây nhưng chỉ có dưa hấu được phát mỗi tuần, không có chuối là thức ăn chính, chú khỉ nào cũng nhớ.

Khỉ lớn quen với rừng hơn, chịu cực khổ đắng cay cũng nhiều, hiểu đời hơn, và trầm tĩnh, chịu đựng hơn, nên cưng chìu khỉ nhỏ, có gì cũng để phần cho khỉ nhỏ. Tìm được mẫu trái cây nào cũng nhường khỉ nhỏ ăn trước. Khi nhỏ xa cha mẹ sớm, may mắn gặp được hai anh khỉ lớn chín chắn, khôn ngoan, nên cũng đỡ vất vả giữa rừng núi Pulau Bidong.

@@@

Cả ba anh em người dưng khác họ cùng tuổi khỉ (Huyên nhỏ hơn hai anh đúng một con giáp) nên đều rất thích câu ca dao:

Người ta tuổi Ngọ, tuổi Mùi

Riêng tôi sao cứ ngậm ngùi tủi (tuổi) Thân

Nghe hoài bị nhập tâm, nhìn cái dáng cao gầy, lủi thủi của hai anh, và khuôn mặt buồn hiu vì một thân một mình ở trại ty nạn, Huyên thương hai anh như anh ruột. Có một lần "cám cảnh" một thân một mình của hai anh, đến trại ty nạn một mình, ban ngày đi làm thiện nguyện, tối về ăn "cơm cao ủy” (nghĩa là phần ăn của tổ chức giúp người tỵ nan của Liên Hiệp Quốc phát hàng tuần), Huyên dùng trứng gà và dầu đánh sauce mayonnaise, rồi vét đến tận ... đáy thùng những đồng ringgits (đơn vị tiền tệ của Mã Lai) quý giá của mình, mua cho hai ông anh…nuôi tuổi Thân hai ổ bánh mì nóng từ một lò bánh mì trên đảo của người tỵ nạn.

Tội nghiệp hai ông anh, đang trong độ tuổi hai mươi đầy sức sống, có bánh mì nóng ăn với sauce mới làm xong, mỗi ông “quất” (chữ dùng của anh Đăng) một ổ bánh mì dài khoảng hai gang tay người lớn, có bán kính bằng chiều ngang của lòng bàn tay. Ăn xong mới chợt nhận ra là mình đã quá sức overeating, cả hai nằm lăn ra sàn ván ép của “long house” mà thở. Huyện không được chứng kiến cảnh này vì hai anh khỉ lớn ở phía Đông, Huyên ở phía Tây của trại, Khi nghe kể lại, Huyên cười nửa đùa nửa thật:

- May quá, nếu các anh bị bội thực, lỡ có mệnh hệ nào thì em mang tội giết người bằng bánh mì với sauce.

Anh Trí còn cười:

- Yên tâm khỉ nhỏ, anh mệt quá đã định quơ tờ giấy viết chúc thư để lại “tôi chết là do ham ăn, không biết lượng sức mình, lỗi tại tôi mọi đàng, xin đừng bắt tội ai.”

Anh Đăng thì tự tin hơn:

- Anh chưa đặt chân đến Mỹ thì không thể chết được đâu.

Anh Đăng và anh Trí là bạn học cùng lớp suốt 7 năm Trung học ở Chu Văn An. Xong tú tài, anh Đăng vào Quốc gia hành chánh, anh Trí vào Phú Thọ. Chưa xong năm thứ nhất, nước mất nhà tan theo đủ mọi nghĩa, anh Đăng về miền Tây (quê ngoại của anh) giúp mẹ nuôi một bầy em dại trong khi ba anh (một cựu Sĩ quan QLVNCH) vẫn biền biệt trong các trại tù cải tạo. Nửa thầy, nửa thợ, lại thêm cái lý lịch đen hơn đêm ba mươi dưới cái nhìn của chính quyền mới, trong màu đỏ búa liềm, anh Đăng theo nghề lơ xe, dùng kiến thức Quốc gia hành chánh năm thứ nhất sắp xếp chỗ ngồi cho hành khách trên các chuyến xe đò tuyến đường Cần Thơ - Saigon.

Không như anh Đăng, phải tự đuổi học mình vì phải điền khuyết vào chỗ trống của người chủ gia đình, thay cha nuôi em, anh Trí bị trường Đại học Bách khoa (tên mới của Phú Thọ) đuổi học vì ba anh tử trận vào những ngày cuối cuộc chiến. Những kiến thức vi phân, tích phân, toán cao cấp của năm thứ nhất ngành Công chánh ở trường Đại học Phú Thọ không có chỗ dùng khi anh ra lề đường ngồi bán sách. “Nhà toán học” ngồi ở lề đường đầy bụi bặm, mê giải toán hơn là mê “kinh doanh” nên chỉ sau một tháng, anh bỏ nghề buôn bán chữ nghĩa, đi làm phụ hồ. Cứ tưởng tượng bộ óc giỏi nhất của một lớp 12 ban toán Chu Văn An, đang học năm thứ nhất của Phú Thọ, phải bỏ trường, bỏ lớp, đi kiếm sống bằng việc bưng gạch, trộn xi măng mới thấy sai lầm giết cả một, hai thế hệ của chính quyền mới.

Khi miền Nam mới đổi chủ, tự dưng chất xám của miền Nam chảy ra lênh láng trên mặt đường, trong rừng sâu, trước khi chảy ra biển, và đi khắp thế giới.

Anh Trí đến Pulau Bidong bình yên trong lần vượt biên đầu tiên. Hơn ba tháng sau, anh Đăng cũng đến trại tỵ nạn nằm ngoài khơi của Mã Lai. Lúc đó có gần 3000 người ty nạn trên đảo nên họ không gặp nhau, và không biết là mình cùng có mặt trên đảo.

Đến lúc anh Trí được mời lên phỏng vấn bởi phái đoàn Mỹ. Tiếng loa vang vọng khắp đảo để ở ngỏ ngách nào, người tỵ nạn cũng có thể nghe được:

- Mời đồng bào Hoàng Phong Trí, tàu số MB xxx lên hội trường để được phái đoàn Mỹ phỏng vấn.

Lúc đó anh Đăng đang chân ướt chân ráo, mới có mặt ở đảo khoảng một tuần, cũng đi lên hội trường, không phải để được phỏng vấn mà là để gặp bạn mình.

Đó là lần đầu tiên họ gặp nhau kể từ khi đậu tú tài vào mùa hè năm 1974. Không hẹn mà cả hai cùng thốt lên:

- Sao ông đen và ốm vậy?

Một thân một mình ở trại ty nạn rất buồn, gặp được một người quen, nhất là một người bạn cùng lớp thời trung học thì không có niềm vui nào lớn hơn. Thế là anh Đăng dọn từ khu F về khu D ở cùng nhà với anh Trí.

Tháng 6 năm đó, Huyên đặt chân lên đảo Pulau Bidong. Hoàn tất mọi thủ tục dành cho một thuyền nhân mới nhập trại, Huyên mon men lên trường Trung học duy nhất của trại ty nạn nằm giữa khu nhà Huyên ở và Bưu điện của đảo, khi nghe một chị ở cùng nhà, đang dạy ở đó, cho biết trường rất cần người dạy cho các em trên đảo. Trong văn phòng của trường (là căn nhà mái tôn, sàn gỗ, khá vững chắc, và tiện nghi) Huyên gặp Sister Carol (người Úc) hiệu trưởng của trường, và anh Trí (người phụ trách soạn thảo sách Toán bậc Trung học để dạy cho các em trên đảo)

Sau một vài phút phỏng vấn, bà soeur người Úc nói tiếng Anh giọng Úc, Huyên nói tiếng Anh giọng Việt Nam, vậy mà cũng hiểu nhau, Sister giao cho Huyên dạy Anh văn cho lớp 8, Huyên được Sister giới thiệu với anh Trí, một thanh niên trẻ ốm nhom đang ngồi trên một cái bàn đầy giấy tờ với các công thức Toán, các hình vuông, tròn, tam giác… của môn Hình học, các công thức sin, cos của môn lượng giác…

- Đây là Mr. Hoàng Phong Trí, được coi như Giám học của trường.

Rồi Sister Carol quay đi với những bận rộn của một thiện nguyện viên điều hợp trường trung học trong một trại ty nạn có hơn 300 em đang theo học hai môn Toán và Anh văn.

Phe ta thuộc loại “tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời” nên nói tiếng Việt :

- Dạ chào chú.

Anh Trí trợn mắt, mỉm cười:

- Chào cô, cô mà gọi tôi là chú, tôi sẽ xếp cho cô dạy một lớp có học sinh dữ dằn nhất .

- Dạ chào anh.

-

@@@

Lần đầu tiên Huyên chạm mặt với anh Đăng là ở hội trường, nơi các nhân viên của Cao ủy ty nạn Liên hiệp quốc từ rất nhiều nước trên thế giới đến làm việc.

Chị Nga ở cùng nhà, rủ Huyên lên hội trường, ở một góc đảo, làm việc với Cao ủy May thay cho chị sắp đi định cư ở Canada. Cao ủy phó phỏng vấn Huyên bằng cả tiếng Việt và tiếng Anh. Tiếng Việt của cô May là một thứ tiếng Việt … ngang phè, dấu sắc, huyền, hỏi, ngã khi ẩn khi hiện, danh từ, tĩnh từ, chủ từ chạy lung tung không đúng vị trí:

- Mình đến đảo một mình à? Đâu có phải làm gì nhiều, lên đây làm việc giúp Cô May nhé. Rất cần những người tỵ nạn biết tiếng Anh phụ giúp các cao ủy, các phái đoàn, và đồng bào của mình nữa. Nhiều việc phải làm lắm.

Rồi cô May dẫn Huyên vào một cái phòng nhỏ, hình vuông, mỗi cạnh khoảng 5 thước, trong đó có bảy ông trung niên, thanh niên, và một chị đang cặm cụi viết lách. Đó là phòng giúp cao ủy ty nạn Liên Hiệp Quốc dịch các hồ sơ ghe vượt biên bị cướp biển từ tiếng Việt qua tiếng Anh. Một trong số những người làm ở đó là anh Đăng.

Chỉ một tuần sau khi làm việc ở đó, Huyên quen thân với anh Đăng, người đứng đắn nhất trong số những người đàng hoàng. Anh Đăng viết chữ rất đẹp, giỏi Anh văn hơn Huyên nhiều. Anh là một quyển tự điển sống khi Huyên gặp những chữ khó.

Một ngày như mọi ngày ở trại ty nạn, anh Trí dạy Toán ở trường trung học, anh Đăng là người thông dịch, và dịch tài liệu giúp các nhân viên của Cao ủy Ty nạn Liên Hiệp quốc. Huyên làm việc với anh Đăng ở hội trường buổi chiều và buổi tối. Buổi sáng dạy Anh văn cho lớp 7 và lớp 8 ở trường trung học Pulau Bidong. Làm việc không có lương, nhưng được các cao ủy mua tặng quần áo mới, không còn phải mặc đồ cũ từ kho phát quần áo có xuất xứ từ Good Wills bên Mỹ. Áo quần cũ của người Tây phương cao to, người Việt Nam mặc vào vừa rộng, vừa dài, giống như con bù nhìn đuổi chim ăn lúa trên đồng ruộng.

Tội nghiệp hai ông anh … khỉ lớn, Huyên mượn kim chỉ của Cô May về cắt, sửa lại cho hai anh mỗi ông một cái áo chemise mặc vào trông tươm tất hơn. Không có thước để đo, Huyên chỉ độ chừng bằng mắt. Kiến thức môn Toán, và khả năng của một người vừa học xong một lớp học may căn bản giúp Huyên sửa được hai cái áo chemise thuộc loại extra large size thành hai cái áo rất vừa với khổ người ốm và cao của “hai ông anh khỉ”. Huyên được hai anh khen:

- Không ngờ khỉ nhỏ cũng được việc.

Không biết để trả công thợ may, hay vì thấy cô em người dưng khác họ, hiếm khi có tiền, rất thích ăn trái cây đúng như … cốt khỉ, từ đó cứ mỗi lần có được một ít tiền viện trợ từ thân nhân, hay bạn bè ở Mỹ, anh Đăng đều mua cho Huyên một trái táo do người Mã lai bán ở một cái quầy nhỏ trên đảo. Những trái táo đó nhỏ hơn Washington apple, không giòn như Fuji apple nhưng là cả một món ăn quý hiếm đối với người tỵ nạn. Có lần Huyên cắt táo ra từng múi nhỏ, đem mời hai anh cùng ăn, cả hai anh đều từ chối:

- Đàn ông con trai ít ăn trái cây lắm.

Huyên ngây thơ tưởng thiệt, ăn ngon lành cả trái táo.

Anh Trí thì hay dẫn Huyên đi uống sữa màu (giống như Latte của Starbucks ở Mỹ) ở quán cà phê duy nhất trên đảo có ocean view rất đẹp mỗi khi anh có tiền. Đam mê và khả năng đặc biệt của môn Toán giúp anh soạn được những giáo trình rõ ràng, ngắn gọn, dễ hiểu để dạy nên rất nhiều em thích môn Toán của thầy Trí. Mơ ước lớn nhất của anh là được qua Mỹ học ở MIT (Massachusetts Institute of Technology), tiếp nối năm thứ nhất dang dở của anh ở Phú Thọ.

Cuộc sống ở đảo bình yên như vậy. Vào những ngày lễ lớn, các nhân viên cao ủy về đất liền, hay về nước nghỉ phép, cả ba anh em vô rừng cắm trại, thức ăn mang theo chỉ có bánh mì với sauce mayonnaise, và cốm làm bằng mì vụn ngào đường, nhưng tất cả đều vui như ….khỉ được thả về rừng. Những lúc đó, các anh thường nói về ước vọng của mình khi được đặt chân đến xứ tự do. Anh Trí nuôi mộng về lại Phú Thọ để học, hay dạy. Anh Đăng ước mơ học về computer để mở mang nước nhà. Và Huyên, Huyên chi dám hy vọng mình một ngày nào đó, được mang kiến thức học được ở các nước giàu có, văn minh về giúp quê nhà. Lúc đó, chắc chắn không phải là quê hương tội tình, đã dập vùi ước mơ của các sinh viên vừa lớn như anh Đăng, anh Trí, không có những người đứng trên bục giảng nhưng không có tư cách của một nhà mô phạm, dạy học trò coi cha mình là “người có nợ máu với nhân dân”.

@@@

Cuộc sống của ba anh em tuổi khỉ êm đềm trôi qua, khoảng nửa năm sau, anh Đăng rời đảo vào đất liền, chuyển qua hai trại tỵ nạn khác, rồi đến Mỹ vào thập niên 80s. Hai tháng sau, Huyên cũng được chuyển trại, gặp lại anh Đăng ở trại ty nạn Bataan, ở gần Manila của Philippines. Như bao nhiêu thuyền nhân khác chuẩn bị đi Mỹ định cư, cả hai anh em đều được huấn luyện nếp sống mới “American Culture orientation” để chuẩn bị qua Mỹ vào buổi sáng. Buổi chiều, được xe bus chở về phía bên kia của trại, cách nơi tạm trú khoảng hơn hai miles, để làm thông dịch viên cho các thầy cô giáo người Phi dạy cho các trại viên khác. Hai anh em thuộc hai khóa khác nhau nên không còn thân như những ngày cùng làm việc mỗi ngày ở trại ty nạn Pulau Bidong nằm ở ven biển Mã Lai. Vả chăng lúc đó, pressure của cuộc sống mới ở Mỹ đặt nặng lên vai anh Đăng. Ba anh vẫn còn ở trong tù cải tạo, mẹ anh vơ vét hết những thứ có thể bán được để đưa anh, người con trai lớn nhất vượt biên. Mẹ anh không dặn dò, nhưng anh hiểu anh còn có một gánh nặng gia đình phải lo toan, cho mẹ đỡ vất vả, nuôi các em khôn lớn, và cả nuôi ba đang mỏi mòn, khốn đốn trong trại cải tạo.

Thỉnh thoảng, hai anh em vẫn đi lang thang trên con đường nhựa duy nhất ở trại tỵ nạn Bataan, nhắc đến anh Trí vẫn còn đang ở Pulau Bidong. Không biết vì một lý đó nào đó, anh Trí bị phái đoàn Mỹ từ chối, và đang chờ các phái đoàn khác đến phỏng vấn. Bataan là đất liền, lại gần thủ đô của Phi Luật Tân, nên không có rừng để khỉ đùa giỡn hồn nhiên như ở Pulau Bidong. Và cả khỉ lớn, lẫn khỉ nhỏ đều nhớ đến “khỉ giỏi toán” đang lạc bầy ở Malaysia .

@@@

Anh Đăng đến Mỹ, vì không có thân nhân, nên anh được một tổ chức thiện nguyện đưa về một nhà thờ Tin lành ở Saint Louis, Missouri, miền Trung Tây của Mỹ. Anh sống ở nhà của vị mục sư nửa tháng. Tư cách và trình độ của anh chinh phục được cảm tình của cả gia đình vị mục sư, anh cũng được họ cho ở miễn phí trong một căn phòng khá rộng có đầy đủ tiện nghi, nhưng anh muốn ra sống riêng vì theo thư anh viết cho Huyên:

“Anh muốn tự lập, và vì anh không thể bỏ đạo Phật theo đạo Tin lành, nên anh không muốn ở lâu mặc dù cả gia đình của họ rất quý mến anh. Và em biết trình độ Anh văn của anh rồi đó, khỉ nhỏ, anh không có trở ngại trong việc nói cho ông bà mục sư hiểu tại sao mình phải sống đời lưu lạc. Muốn viết cho em nhiều nữa nhưng cho anh ngừng ở đây, anh phải viết thư nâng đỡ tinh thần của Trí ở Pulau Bidong. Nghe nói sau khi anh em mình rời đảo, Trí đau một trận, không biết hắn ta tương tư em, tương tư anh, hay cả hai đứa mình?”

Lúc nào anh Đăng cũng vậy, anh nghiêm trang, nhưng rất có khiếu hài hước.

Đến Mỹ sau anh gần ba tháng, Huyên mang theo khoảng hơn 10 cái thư, anh Đăng gởi về từ hai địa chỉ khác nhau của thành phố Saint Louis. Thời đó, chưa có PC, không có email, quyển sổ ghi địa chỉ của Huyên có tên anh Đăng, và anh Trí ở trang đầu.

May mắn hơn anh Đăng, Huyên có thân nhân ra đón, ở phi trường San Francisco, không phải leo lên một chuyến máy bay khác bay về một nơi xa lạ, với những người lạ khác mình về tất cả mọi mặt. Dù lúc đó mấy đứa em còn nhỏ, đang đi học, mấy chị em cũng nghèo xác xơ như anh Đăng, nhưng Huyên được về California ấm hơn, và có nhiều người Việt Nam hơn anh Đăng. Lâu lâu Huyên vẫn viết thư chọc anh bằng thơ của Nhà thơ Trần Mộng Tú, mấy câu thơ mà cả ba anh em khỉ đều thích khi đọc được từ tạp chí Văn trong cái thư viện nhỏ ở Pulau Bidong:

Hãy tưởng tượng ra em

Ở một căn nhà lạ.

Mình em một màu mắt

Mình em một màu da

Mình em một lệ nhòa

Huyên đã đổi “em” thành “anh” trong mấy câu thơ gởi qua cho anh Đăng. Anh gởi lại một cái post card mặt trước có con khỉ nhăn răng cười, mặt sau có duy nhất một giòng chữ "khỉ anh chưa bao giờ khóc đâu khỉ nhỏ ơi!”

Lúc đó, cả hai anh em góp phần làm giàu cho cho bưu điện của Mỹ bằng những lá thư viết tay hàng tuần. Mỗi tuần ba ngày, đi học, đi làm về, cả anh Đăng và Huyên nhận được thư tay viết cho nhau. Chữ viết tay của Huyện thì vẫn … xấu muôn thủa, nhưng chữ của anh Đăng đã không còn đẹp như hồi anh còn viết báo cáo ở một góc hội trường của văn phòng cao ủy ở Pulau Bidong.

Cái Tết đầu tiên ở Mỹ của anh Đăng vẫn “một ngày như mọi ngày”. Giữa quê người và trời lạnh cắt của mùa Đông đầu tiên ở miền trung tây nước Mỹ, không có một chút gì gợi cho anh Đăng nhớ lại những cái Tết bình yên hạnh phúc trước năm 1975, những cái Tết buồn bã sau năm 1975, và cả Tết đầu tiên ở quê người có tiếng đập tôn thay cho tiếng pháo ở trại ty nạn Pulau Biddong, có mùi nhang trầm bay khắp đảo khi người ta cúng ông bà, tiễn năm cũ, đón năm mới vào giờ giao thừa.

Người nhắc cho anh Đăng nhớ Tết Việt Nam ở Mỹ là Huyên. Lúc đó, người Việt Nam ở Mỹ chưa đông lắm, người Việt Nam ở St. Louis còn hiếm hoi hơn, sống rải rác, xa nhau, không có chuyện ăn Tết Việt Nam. Hơn nữa anh Đăng lại rất bận, nên không nhận ra tháng chạp âm lịch sắp nhường chỗ cho tháng giêng, năm mới. Huyên gởi thư đi nhắc anh Đăng tuần sau là Tết Nguyên đán. Anh gởi lại một phong bì thường như bao nhiêu cái thư anh vẫn gởi, nhưng thư Tết của anh Đăng có hai tờ USD1.00, và một tờ USD2.00 mới toanh kèm theo một câu thơ của thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên “Tết về rồi đó nhỏ, chim núi của lòng anh”. (Hình như anh muốn nói đến nguyên tắc sống của anh, đơn giản rõ ràng như: một cộng một là hai?)

Huyên gởi thư cảm ơn, chúc anh một năm mới may mắn, an vui, nhưng “lờ” luôn câu thơ anh áp dụng rất đúng chỗ.

Anh Trí thì gởi cho Huyên một cái hình Pulau Bidong anh vẽ bằng bút chì, có rừng cây và một con khỉ đang treo lơ lửng trên một nhánh cây trong rừng thưa. Huyên lập tức hồi âm bằng lời Phật dạy “thiên thượng địa hạ, duy ngã độc tôn.” Huyên còn nhớ đã đọc được trong một lần đi lễ chùa vào ngày Tết ở Việt Nam. Anh Trí rất thông minh, chắc chắn anh sẽ hiểu ý Huyên. Và anh sẽ nhìn cuộc đời dưới cái nhìn của một Phật tử để có thể vượt qua nỗi buồn “là một trong những công dân dài hạn” của trại tỵ nạn.

Với riêng Huyên, Tết Việt Nam và cả Tết Tây đầu tiên ở Mỹ đều "một ngày như mọi ngày". Thời đó, cuối thập niên 80s, không có bang giao giữa Mỹ và Việt Nam nên ngày Tết Việt Nam không có gì rõ nét. Như thế đôi khi tốt hơn, đỡ nhớ nhà! Và như vậy, Tết Việt Nam đến và đi âm thầm trong lòng anh em nhà khỉ từ St. Louis, San Jose ở Mỹ đến Pulau Bidong ở Mã Lai

Đời sống ở Mỹ bận rộn, túi bụi, vừa đến Mỹ được một tuần, anh Đăng đã xin được việc làm, và tiếp nối con đường đèn sách bằng trường Community College ở Mỹ, một loại trường công lập dạy kiến thức hai năm đầu Đại học, chỉ cấp bằng trung cấp, và sẽ chuyển sinh viên lên University học hai năm còn lại để hoàn tất bằng cử nhân, nếu họ thich. Trình độ Anh ngữ của anh Đăng, và trình độ của một sinh viên năm thứ nhất của học viện Quốc gia hành chánh giúp anh học straight A dễ dàng, mặc dù anh phải đi làm full time để gởi tiền về quê nhà giúp Mẹ nuôi em.

Anh em nhà khỉ ở Mỹ vẫn thương yêu nhau như xưa, mặc dù bây giờ muốn đi thăm nhau phải mất đến gần 4 giờ trên máy bay, chứ không phải chỉ cần đi bộ 5 phút như hồi còn ở trại tỵ nạn.

Cả hai anh em vẫn viết thư đều đặn cho anh Trí, những thư đi thì có, mà không thấy anh Trí viết thư trả lời. Tuy buồn và lo cho anh Trí, nhưng anh Đăng vẫn lạc quan:

- Anh tin là nhà toán học của 12B2 Chu Văn An năm xưa vẫn bình yên nhưng chắc là biết mình đang bươn chải, ngược xuôi với cơm áo, với học hành nên Trí không trả lời.

Anh còn tếu thêm:

- Cốt khỉ vẫn hoàn khỉ, và khỉ thì chẳng bỏ bầy đâu Huyên ơi!

Anh em nhà khỉ đã có Associate Degree từ Community College chỉ sau một năm rưỡi bằng lòng quyết tâm, và bằng lời hứa với cha mẹ, với chính mình.

Chuyển lên Unviversity học thêm hai năm cuối để hoàn thành cử nhân, học khổ hơn, nhiều project hơn, nhất là năm cuối, phải làm rất nhiều bài, phải đi thực tập, anh Đăng lại được promote ở nơi làm việc. Biết sức người có hạn và muốn giữ straight A, muốn ra trường với Summa Cum Laude về Computer Science nên anh chỉ học part time ở năm cuối. Huyên học ngành dễ hơn anh, lại không dám mơ đến Summa Cum Laude từ hồi bước chân vô University với cả hai thứ học và làm đều full time, nên ra trường trước anh. Thời đó, chưa có mobile phone, cuối tuần mới gọi phone cho nhau, anh Đăng luôn đùa như bản tính của anh từ thủa nào:

- Khỉ ơi, vậy là bây giờ em có bằng cấp cao hơn anh và khoẻ hơn anh nhiều. Anh vẫn còn nặng nợ, cả nợ cơm áo lẫn nợ sách đèn. “

Huyên đùa lại:

“ - Hai vai gánh hai gánh như vậy nên vai anh sẽ chẳng bao giờ bị lệch”

Anh trở lại nghiêm trang khi tâm sự về chuyện học ở năm cuối:

- Mỗi lần viết xong được một cái program, nộp cho ông thầy xong thấy lòng nhẹ nhỏm. Tuần sau ông thầy phát bài, chưa kịp vui vì điểm A, lại nhận một program khác để viết, mà chưa biết phải bắt đầu từ đâu? Ước gì có Trí bên cạnh, hồi xưa Trí giỏi Toán hơn anh, chắc chắn nó viết program giỏi hơn anh. Nhớ cầu nguyện cho anh khỉ lớn vẫn còn lạc lỏng ở đâu đó, nghe khỉ nhỏ!”

Có lần anh Đăng gởi mừng sinh nhật Huyên một con khỉ nhỏ đánh trống, thắt nơ hồng rất dễ thương. Huyên vẫn còn giữ đến tận bây giờ trên một góc bàn làm việc, và trong một góc sâu nhất của tâm hồn.

Chuyện của anh em nhà khỉ, kể hoài không hết. Như chuyện tranh Huyên đã đọc hồi nhỏ, trong đám học trò theo Thầy Tam Tạng đi thỉnh kinh, có Tề thiên (một con khỉ lý lắc, thông mình, nhưng hay phá phách). Lâu lâu Thầy Tam Tạng lại phạt Tề thiên nhức đầu để cho học trò khỉ bớt láu cá, và bớt phá phách.

Trên đời này, cả trăm ngàn người cùng tuổi khỉ, nhung chắc chỉ có hai anh khỉ lớn, khi viết thư hay gọi điện thoại cho Huyên đều mở đầu bằng hai chữ thân quen “khỉ ơi”.

@@@

Cuối cùng anh Trí cũng được đi định cư ở Hòa Lan sau 5 năm dài ở trại ty nạn. Anh thuộc loại tài hoa, học giỏi, vẽ đẹp, chơi đàn hay, cái gì anh chạm tay vào cũng tốt đẹp hơn nên bị “trời xanh đánh ghen” tơi tả. Anh bắt đầu học một ngôn ngữ mới, bắt đầu mọi thứ từ số không ở tuổi ngoài 30, và trở thành một programmer giỏi của xứ sở hoa Tullip. Anh càng giỏi, càng bận rộn, càng đam mê môn Toán, không có thì giờ nghĩ đến “một nửa thứ hai” để có thể lưu lại off-spring của mình như đa số mọi người. Tuổi đời càng nhiều, con số công trình anh đóng góp cho quê người, một cách thầm lặng nhưng rất đáng giá, càng cao.

Mới đây anh viết Email cho cả anh Đăng và Huyên:

“Khỉ ơi, khi nào thì bầy khỉ tụi mình mới về lại được Việt Nam dân chủ tự do, mới được đóng góp cho quê nhà, và được vào cắm trại ở rừng thưa như những ngày Bidong xưa cũ?”

@@@

Mỗi lần đến Tết, dù không còn đi chợ Tết, không còn nỗi háo hức của những mùa Xuân hạnh phúc thời thơ dại, Huyên vẫn ăn Tết bằng một lát mứt khoai (là thứ mứt mà Mẹ hay làm mỗi dịp Tết) , một miếng bánh mì có phết mayonnaise để nhớ những mùa Xuân hạnh phúc luôn nằm trong một góc ký ức ngọt ngào. Dù năm đó là năm nào trong 12 con giáp, Huyên vẫn muốn được nghe lại tiếng “con khỉ nhỏ” của Ba Mẹ gọi Huyên, và tiếng “khỉ ơi” của anh Trí, anh Đăng. Và như thế, nên lúc nào có dịp vào sở thú, Huyên cũng tần ngần dừng lại bên chuồng khỉ, ngắm những con khỉ như ngắm lại những kỷ niệm đẹp của mình.

Nguyễn Trần Diệu Hương

Tháng 12/2015

Xin tặng những người tuổi Bính Thân và Mậu Thân