Nhạc sĩ Việt Dzũng (Ảnh: Dân Huỳnh/Người Việt)
26.12.2013
Đầu thập niên 80, lần đầu tiên tôi được nghe tên ca nhạc sĩ Việt Dzũng là lúc tôi ôm cái radio cũ mèm vặn volume "vừa đủ nghe…” để nghe bài "Một chút quà cho quê hương" được phát từ chương trình nhạc của đài phát thanh. Lúc đó, tôi còn quá nhỏ, là học trò trung học ở Việt Nam, không biết gì về Việt Dzũng, nhưng cả bọn chúng tôi đều không cầm được nước mắt khi nghe tiếng hát của anh:
Gởi về Việt Nam khúc hát ân cần
Xin chút yên lành trong giấc ngủ da vàng
Hoặc:
Gởi về cho em kẹo bánh thênh thang
Em ăn cho ngọt vì đời nhiều cay đắng
Vài năm sau, khi lưu lạc ở trại tỵ nạn Pulau Bidong ở Malaysia, chúng tôi lại được nghe "Một chút quà cho quê hương" và "Tình ca cho Nguyễn Thị Saigon" từ loa phóng thanh của trại hàng tuần. Những lúc như vậy, sinh hoạt của trại như lắng đọng lại. Người ta lắng nghe để nhận ra thân phận chim thiên di phải bỏ quê hương của mình. Ở một góc biển đảo, tại một trại tỵ nạn, giọng hát của Việt Dzũng làm mềm lòng mọi người. Lần này, chúng tôi tha hồ khóc, không còn phải che giấu như ngày còn ở quê nhà, nhất là khi nghe giọng trầm buồn của Việt Dzũng:
Con thuyền mong manh, vẫy tay từ biệt
Gạt lệ ra đi, xin làm thân lữ thứ
Còn nhớ anh Trịnh, một người bạn cùng trại, phụ trách môn Toán của một lớp thiện nguyện ở trường học Pulau Bidong. Có lần, anh Trịnh nói với chúng tôi, giọng nghiêm trang: Sau này nếu anh có con, dù là con trai hay con gái, anh sẽ đặt tên cho nó là Hy Vọng và sẽ nói với nó là bác Việt Dzũng đặt tên cho nó.
Tưởng là anh chỉ nói vì xúc động khi nghe tiếng hát Việt Dzũng, qua các ca khúc về người tỵ nạn, nhưng hơn hai mươi năm sau, chúng tôi có dịp gặp con gái anh, cô bé tên Huỳnh Thị Hy Vọng, năm nay em sắp tốt nghiệp Đại học, biết hát bài "Tình ca cho Nguyễn Thị Saigon" rất rõ ràng, mặc dù em nói tiếng Việt chưa sõi, với âm hưởng chưa chuẩn xác.
Phần chúng tôi, những ngày đầu sống đời lưu vong, vừa đi học, vừa đi làm, không có thời gian để nhớ nhà, để...buồn, nhưng cứ mỗi lần nghe "Một chút quà cho quê hương" nhất là câu:
Gởi về Việt Nam nước mắt đong đầy
Mơ ước một ngày quê hương sẽ thanh bình
là mắt chúng tôi nhạt nhòa, đường xá xe cộ bỗng dưng mờ ảo qua màn nước mắt.
Từ khi có Google chúng tôi biết nhiều về ca nhạc sĩ Việt Dzũng và bầy con tinh thần rất đông đảo của anh (hơn 450 nhạc phẩm), nhưng chúng tôi vẫn thích nhất "Một chút quà cho quê hương", và "Tình ca cho Nguyễn Thị Saigon".
Âm nhạc Việt Nam có rất nhiều nhạc sĩ, có cả trăm nhạc phẩm đi vào lòng người nghe thuộc nhiều lứa tuổi, nhiều thời đại. Lịch sử thuyền nhân Việt Nam với "bầy chim bỏ xứ" có nhiều chuyện lấy được nước mắt của những người cứng rắn nhất nhưng chắc là không có một nhạc sĩ nào - ở tuổi trên dưới hai mươi - viết được:
Gởi về Việt Nam khúc hát ân cần
Mơ ước yên lành trong giấc ngủ da vàng
Hay
Ru em giòng lệ quê hương
Chảy xuôi trăm ngả trùng dương chia lìa.
Với chúng tôi, Việt Dzũng là người có toàn bộ "điều kiện cần và đủ" cho ước mơ mà anh theo đuổi: tài năng và tấm lòng với quê nhà. Do vậy, bây giờ hay mãi mãi về sau nhắc đến dòng nhạc lưu vong, người ta sẽ không bao giờ quên anh.
Ước mong Huỳnh Thị Hy Vọng, cùng với Trần Thị Thương Nhớ, Nguyễn Thị Sài Gòn, Lê Văn Lưu Vong…biết con đường phải đi để đưa Việt Nam trở lại với vị trí "minh châu trời Đông".
Vĩnh biệt anh Nguyễn Ngọc Hùng Dũng. Bây giờ thì anh đã có thể về thăm quê nhà, đi lại trên con đường Nguyễn Du đầy lá me bay ở bên hông trường Taberd của anh ngày xưa. Mà hình như me chín rụng trên đường Nguyễn Du không còn ngọt ngào như ngày nào khi anh còn là một cậu học trò trung học phải không anh?
Năm mươi lăm năm trên cuộc đời của anh không dài lắm nhưng anh đã để lại nhiều ảnh hưởng và đã gián tiếp đặt tên cho rất nhiều em thuộc thế hệ Việt Nam lưu vong thứ hai.
Anh đã làm được điều mà một nhà thơ người Mỹ Ralph Waldo Emerson khuyên:
“When you were born you were crying and everyone else was smiling. Live your life so at the end, your're the one who is smiling and everyone else is crying.” (Khi bạn ra đời, bạn khóc mà mọi người đều cười. Hãy sống làm sao đến cuối đời, khi bạn ra đi, bạn cười mà mọi người đều khóc.)
Chưa bao giờ và sẽ không bao giờ có cơ hội được gặp ca nhạc sĩ Việt Dzũng, chúng tôi xin tiễn anh về cõi vĩnh hằng với "chút yên lành trong giấc ngủ ngàn đời".
Nguyễn Trần Diệu Hương
****** Nhạc sĩ Việt Dzũng qua đời vì bệnh tim tại California
****** ĐỂ TƯỞNG NIỆM VIÊT DZŨNG, Đọc lại: GIẤC MƠ TRĂNG VÀ ĐÁ
24.10.2013
Khi sống xa quê hương, người ta nhớ nhiều thứ. Có những điều tưởng như đơn giản mà khi không còn trong tầm tay, mới thấy đó như là một báu vật. Với riêng tôi, làn khói nhạt tỏa ra từ những mái nhà mỗi lúc hoàng hôn và tiếng gáy của con dế là một trong hai biểu tượng của quê hương.
Dưới ngòi bút của các nhà văn làn khói bếp tỏa ra từ mỗi mái nhà vào mỗi chiều, cũng trở thành biểu tượng của văn hóa Việt Nam. Làn khói đó qua các bài học thuộc lòng thời tiểu học, đi vào lòng tôi như một phần quê hương mang theo.
Vào mỗi mùa đông, những làn khói mỏng manh bay ra từ các ống khói lò sưởi đã ít nhiều đưa tôi về với các làn khói lam chiều trong bài học thuộc lòng thời thơ dại. Và như vậy, khi nhà hàng xóm đốt lò sưởi, vô tình họ đã giúp tôi mang quê hương chôn nhau cắt rốn về lại rất gần trong tâm tưởng.
Tiếng gáy của con dế thì lâu lắm rồi, từ lúc bắt đầu sống ở quê hương thứ hai, tôi chưa có dịp nghe lại.
"Đá dế" là một trò chơi của các em trai ở Việt Nam ngày xưa. Các em ra đồng, hay ra vườn bắt về, nhốt trong hộp giấy (giống như hộp đựng giày) có đục lỗ để không khí vào cho dế thở. Rồi ông chủ dế tí hon thường xuyên bỏ cỏ non vào cho dế ăn, mỗi ngày ba lần như ba bữa ăn của chính mình. Lâu lâu ông chủ đưa dế vào đấu trường (là một cái hộp giày lớn hơn) cho dế đá nhau với một con dế khác. Trước khi vào đấu trường, ông chủ còn cẩn thận lấy một cái chân nhang (rút ra từ cái lư đồng trên bàn thờ) thọc vào một lỗ nhỏ trên thân dế, nâng lên cao, rồi phù miệng thổi với niềm tin mình đang tiếp sức cho "dế nhà" trước khi đem ra đánh lộn với "dế địch" (là dế của thằng bạn hàng xóm).
Không biết dế bực mình vì bị hành hạ, hay vì bị nhốt lâu ngày cuồng chân mà khi được bỏ vào đấu trường, một cái hộp lớn hơn, dế trút mọi giận dữ lên đầu đối thủ, một con dế khác thuộc quyền sở hữu của "một ông chủ" khác.
Đó là trò chơi mà các em trai rất thích, vì rất dễ tìm bắt dế nhất là vào mùa mưa, em nào cũng có thể có một "dế nhà" để chăm sóc và đưa ra đấu trường, với tôi, một bé gái chưa đến 10 tuổi lúc đó, là một trò chơi đầy bạo lực, vừa "vô nhân đạo", vừa "vô dế đạo".
Thêm vào đó, tôi vừa được đọc "Dế mèn phiêu lưu ký" của nhà văn Tô Hoài. Dưới bút pháp vừa tinh tế, vừa giản dị của ông, lúc đó tôi chưa hiểu hết những bài học về kinh nghiệm đời mà nhà văn muốn dạy độc giả tí hon và cả người lớn, nhưng những con dế trở thành những người bạn thân trong tâm tưởng của tôi và hình như dế cũng có tâm hồn, cũng sâu sắc như người. Lại thêm tác phẩm "Chim hót trong lồng" của nhà văn Nhật Tiến giúp tôi hiểu nỗi buồn của một người bị giam hãm một mình trong một không gian nhỏ.
Và do vậy, chờ cho các anh, em trai trong nhà ngủ say vào một buổi trưa, tôi bưng mấy hộp dế ra vườn, mở hộp phóng thích các chú dế nâu bóng. Trước khi bay vào tự do, các chú dế hình như còn quay lại nhìn tôi, cảm ơn bằng một tràng gáy vang, âm điệu vui tươi, rộn rã; chứ không giận dữ, uất ức như khi bị xỏ chân nhang vào cổ.
Thừa thắng xông lên, tôi chui hàng rào, chạy sang nhà hàng xóm, phóng thích luôn dế của mấy anh nhà bên. Sau đó, đương nhiên tôi là một nghi phạm chính, nhưng không có bằng chứng nên "chẳng làm gì được nhau". Vậy mà tràng gáy cảm ơn của các chú dế lửa, dế mèn theo tôi như một kỷ niệm của tuổi thơ hạnh phúc, an nhiên ở Biên Hòa.
Gần đây, nhờ một tình cờ tôi lại được nghe một bài hát nhỏ của Trần Dạ Từ qua tiếng hát của Khánh Ly do tác giả gởi... nhầm cho tôi dưới dạng MP3, có những câu như:
“Một mùa mưa gió có anh dế mèn phất phơ lạc vào cachot đùa vui với người tù”
“Cám ơn, cám ơn em dế mèn tiếng kêu vừa lạ lại vừa quen”
"Cám ơn, cám ơn em dế mèn bao nhiêu năm bài hát ấy ta không quên..."
Kỷ niệm "phóng thích tù nhân dế" năm xưa bỗng nhiên kéo về trong tôi.
Hình như chú dế mèn vào cachot "trò chuyện" với thi sĩ Trần Dạ Từ đầu thập niên 80 là hậu duệ của các chú dế mèn được tôi thả ra trước đó?
Cám ơn "Cảm ơn Dế mèn" đã đưa tôi tìm lại được âm thanh của tiếng gáy năm xưa như những làn khói từ lò sưởi đưa tôi về rất gần với quê nhà.
Nguyễn Trần Diệu Hương
Santa Clara, California Trung thu 2013
Hoa vàng ngày xưa
bởi Nguyễn Trần Diệu Hương
Dưới những đám mây đen vần vũ trên bầu trời tháng 5 của Sài Gòn mưa nắng hai mùa, chúng tôi ghé cafe Hoa Vàng không phải để tránh mưa, cũng không phải vì muốn uống chất kích thích màu đen - rất dễ bị ghiền - mà vì muốn được gặp mặt thi sĩ Phạm Thiên Thư tác giả của hai bài thơ được Phạm Duy phổ nhạc rất hay "Động Hoa Vàng" và "Ngày xưa Hoàng Thị".
Đó là một quán cafe nhỏ, bình thường như mọi quán cà phê loại trung bình ở Sài Gòn, diện tích gần như là một hình vuông mỗi cạnh khoảng sáu mét, được trang trí bằng các bức tranh tĩnh vật, có đủ cả mai, lan, cúc, trúc. Quán có một bình hoa hồng màu đỏ làm bằng vải trong góc phòng, không có lấy một đóa hoa màu vàng như tên gọi của quán. May thay,trước cửa quán có nhiều cây cảnh, dưới cái nóng gần 40 độ C cùa Sài Gòn, cũng không có lấy một nụ hoa, ngoại trừ vài cái hoa chuông vàng nằm khép nép ở góc trái bên ngoài quán, phải tinh ý mới thấy được.
Chừng đó thôi, nhưng đủ để khách đến cà phê Hoa Vàng nhớ đến hình ảnh "em tan trường về anh theo Ngọ về" dễ thương của học trò những năm cuối Trung học. Trong mắt của ông chủ quán, thi sĩ Phạm Thiên Thư, có cả một động hoa vàng rực rỡ, có cô Hoàng Thị Ngọ đội nón lá mặc áo dài trắng, vẫn đẹp ngây thơ như chưa hề có hơn nửa thế kỷ đã trôi qua. Và dĩ nhiên có cả hình ảnh của anh học trò đệ tam Phạm Kim Long (tên thật của thi sĩ Phạm Thiên Thư} kiên trì "em tan trường về anh theo Ngọ về" suốt cả một năm học. Thời đó các nam sinh Trung học theo các nữ sinh bằng một khoảng cách rất xa, cả hai, ba chục thước. Thảng hoặc vô tình hay cố ý, nàng quay lại nhìn, chàng bối rối cúi xuống giả vờ cột dây giày hay giả vờ cúi xuống lượm sách vở tránh ánh mắt ngây thơ có pha chút tò mò, tinh nghịch của nàng. Và như vậy tình yêu dù đơn phương hay song phương, nếu không có duyên nợ vợ chồng, thì suốt đời vẫn là một tình yêu trong trắng tinh khôi.
Sau một thoáng "mời người lên xe tìm về quá khứ" với tiếng hát cao vút ngọt ngào của Thái Thanh phát ra từ cái máy cũ ở một góc phòng, ông PTT cho biết hình như bà Hoàng Thị Ngọ đang sống ở Quận Cam (Orange County), thủ đô tỵ nạn của người Việt lưu vong . Và vì không có cơ hội liên lạc với người xưa từ ngày "anh theo Ngọ về" có chỗ đứng vững chắc trong âm nhạc Việt Nam, hình ảnh cô Ngọ xinh tươi ở tuổi đẹp nhất đời người mãi mãi còn nguyên vẹn trong ông. Đó là mẫu con gái đẹp trong mắt nhà thơ, nên bà Phạm Thiên Thư bây giờ, mẹ của ba cậu con trai và một cô con gái đã trưởng thành của ông - theo ông - giống bà Hoàng Thị Ngọ đến hơn 80%.
Cũng giống như chị em Thúy Kiều, Thúy Vân "mười phân vẹn mười" trong truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du, cô Hoàng Thị Ngọ có cô em gái tên Hoàng Thị Thân, kém chị hai tuổi, cũng đẹp như chị nhưng anh thanh niên Phạm Kim Long không dám "thả mồi bắt bóng" nên cho đến bây giờ và mãi mãi chỉ có mỗi một bài thơ "Ngày xưa Hoàng Thị" được Phạm Duy phổ nhạc với câu hát nhiều thế hệ học sinh, sinh viên thuộc nằm lòng "em tan trường về anh theo Ngọ về".
Chính chúng tôi khi còn là nữ sinh, cũng thuộc câu hát này từ năm mới vào Trung học, lớp sáu, mặc dù hồi đó cứ tưởng ngõ về là danh từ chung, lối đi về của nàng, chứ không phải là Ngọ, một danh từ riêng, tên của một người con gái, (chắc là sinh vào năm con ngựa?). Lối hát luyến láy làm dấu nặng(Ngọ) và dấu ngã (ngõ) nghe giống nhau. Mãi đến sau, sau này chúng tôi mới biết đó là tên thật của một cô nữ sinh dễ thương duyên dáng học cùng lớp đệ tam với nhà thơ PTT ở trường Trung học Văn Lang (Tân Định, Sài Gòn).
Năm tháng trôi qua rất nhiều thế hệ sinh ra, lớn lên, trưởng thành rồi đi ra khỏi cuộc đời, con số thanh niên mới lớn theo chân người trong mộng chắc phải là cấp số nhân của cả hai bàn tay lẫn hai bàn chân cộng lại nhưng chỉ có mỗi một Phạm Thiên Thư, mỗi một Hoàng Thị Ngọ, nên chưa và có lẽ sẽ chẳng bao giờ có "Ngày xưa Ngô Thị ", "Ngày xưa Bùi Thị", "Ngày xưa Nguyễn Thị"... với "anh theo Thủy về, anh theo Loan về, hay anh theo Trân về..." mặc dù nhiều anh thanh niên mới lớn còn si tình hơn, kiên trì theo gót các bóng hồng hơn cà anh chàng tuổi trẻ Phạm Thiên Thư của cuối thập niên 50s.
Ở tuổi ngoài 70, nhà thơ vẫn còn khỏe mạnh, vẫn còn nhiều cảm hứng sáng tác, chỉ có điều khác biệt là từ thơ tình của những ngày thanh xuân, ở tuổi hoàng hôn ông chuyển sang thơ đạo. Ông còn soạn cả Tự điển cười để đem đến một chút bình yên cho cuộc đời không phải lúc nào cũng mang màu hồng lạc quan, hay màu xanh hy vọng.
Hai bài thơ “Động hoa vàng” và “Ngày xưa Hoàng Thị” được phổ nhạc bởi Pham Duy. Cả thi sĩ và nhạc sĩ đều rung động khi sáng tác, đều gởi cả tim óc và tấm lòng vào tác phẩm nẻn không ai ngạc nhiên khi bài "Ngày xưa Hoàng Thị" thuộc loại bài hát "sống lâu" và có thể là "bất diệt", được rất nhiều ca sĩ hát. Nhưng nhà thơ cho biết ông nghĩ là Thái Thanh diễn tả hay nhất, nói lên được mối tình si của ông với cô Hoàng Thị Ngọ. Có lẽ vì Thái Thanh cũng trạc tuổi với Phạm Thiên Thư. Khi người ta sống cùng thời, cùng vị trí địa lý, thì người ta thông cảm nhau hơn. Và biết đâu khi diễn tả "Ngày xưa Hoàng Thị" , Thái Thanh không chỉ hát vì nghề nghiệp mà bà còn thả hồn về thời mới lớn của chính mình, về những cây si đã theo bà đến mòn cả giày dép?
Và vì vậy trong bầy con tinh thần khá đông của Phạm Thiên Thư, từ thơ, văn, đến biên khảo, từ tình yêu đến tôn giáo, chúng tôi, thế hệ hậu sinh,vẫn thích tập thơ Động hoa vàng và bài thơ Ngày xưa Hoàng Thị nhất.
Nhìn chúng tôi giành nhau hai quyển Động hoa vàng còn lại trong số sách bày bán ngay ở cafe Hoa Vàng, ông PTT "động lòng" đi lên gác lục lọi gia sản tinh thần của mình đem xuống quyển thứ ba, quyển cuối cùng. Chúng tôi rất vui vì có thủ bút của nhà thơ ký tặng. Chừng như thi sĩ còn vui hơn vì có người trân quý một trong những công trình tim óc của mình.
Không được biết cô Hoàng Thị Ngọ, chúng tôi kín đáo quan sát bà Phạm Thiên Thư để tìm lại hình ảnh cô nữ sinh mà tên tuổi và hình ảnh thời mới lớn đã có một chỗ đứng trong cả thi ca và âm nhạc.
Chúng tôi đến cà phê Hoa Vàng không phải vì muốn uống cà phê, chùng tôi đến thăm thi sĩ Phạm Thiên Thư chỉ vì ông là tác giả của:
…
Em từ rửa mặt chân như
Nghiêng soi hạt nước mời hư không về
Thâu hương hiện kính bồ đề
Phấn son chìm lắng hạt mê luân hồi
Ta về rũ áo mây trôi
Gối trăng đánh giấc bên đồi dạ lan
Rằng xưa có gã từ quan
Lên non tìm động hoa vàng ngủ say
…
Và vì chúng tôi muốn thời mới lớn đẹp nhất đời người luôn còn lại trong chúng tôi như lời nhạc phổ từ thơ :
…
Xưa tan trường về
Anh theo Ngọ về
Nay trên đường này
Ðời như sóng nổi
Xóa bỏ vết người
Chân người tìm nhau tìm nhau
Ôi con đường về
Ôi con đường về
Bông hoa còn đẹp
Lòng sao thấm mềm
Ngắt vội hoa này
Nhớ người thuở xưa thuở xưa
…
Đâu có cần phài giống nhau về quan điểm chính trị, tôn giáo, hay nhân sinh quan để cùng ngồi nói chuyện với nhau về một sáng tác có giá trị được rất nhiều người thuộc nhiều thế hệ biết đến. Vì lẽ đó chúng tôi đến thăm thi sĩ Phạm Thiên Thư như một lời cảm ơn một tác giả đã góp vào thi ca và âm nhạc Việt Nam hai bông hoa rực rỡ không tàn “Ngày xưa Hoàng Thị” và “Động Hoa Vàng”.
Mỗi lần tan học, ở các lớp cuối Trung học, chắc là cũng có các em học sinh mới lớn ngâm nga "em tan trường về anh theo Ngọ về" như chúng tôi ở một thời đẹp nhất đời người đã xa, xa mù tít tắp...
Nguyễn Trần Diệu Hương
California, tháng 8/ 2013
17.04.2013
Từ lúc đọc tác phẩm Nhánh rong phiêu bạt của nhà văn, nhà giáo Võ Hồng, một tác phẩm được dùng làm phần thưởng trong các kỳ thi Đố vui để học cho học sinh trước năm 1975, Thúy không còn thấy tên mình chỉ là thị Thúy, cụt ngủn, bình dân; không đẹp như Quỳnh Hoa, Thu Vân, Thanh Thủy..., không kiêu sa như Tố Nga, Đài Trang, Huyền Trân...Mà ngược lại Thúy tự hào là tên mình đã được nhà văn Võ Hồng đưa vào văn học sử qua Nhánh rong phiêu bạt.
Nhân vật chính của Nhánh rong phiêu bạt cũng tên Lê Thị Thúy, cũng 12 tuổi như chúng tôi lúc đó, vào những ngày cuối của chiến tranh.
Không phải mỗi Thúy, cũng xinh đẹp, cũng con nhà giàu như nhân vật Lê Thị Thúy, mà cả lớp đều mơ có ngày được gặp và nghe nhà văn Võ Hồng dạy dỗ như ông đã từng dạy nhiều thế hệ ở các trường Trung học ở Nha Trang.
Ước mơ nhỏ nhoi, rất dễ thực hiện vì nhà văn Võ Hồng, thuộc thế hệ của ông bà chúng tôi, ở đường Hồng Bàng, một con đường nhỏ, yên tỉnh, gần biển Nha Trang. Vậy mà vĩnh viễn chẳng bao giờ đạt được.
Hồi đó, chúng tôi đạp xe đi qua, đi lại nhà ông ít nhất là mỗi tháng một lần, cả chục cặp mắt cùng nhìn vào cổng nhà ông. Căn nhà nhỏ ẩn mình sau hàng rào hoa tóc tiên như một tấm lá chắn thiên nhiên che chở bảo vệ nhà văn trước một xã hội đảo lộn sau tháng 4 năm 1975.
Một vài lần chúng tôi dừng xe trước cổng nhà ông, định kéo chuông gọi ông như mấy chữ ghi bằng sơn đen trên một tấm thiếc nhỏ bằng nửa cuốn sách treo lủng lẳng bên lề cổng "kéo dây gọi Võ Hồng". Miếng thiếc được treo bằng một sợi dây dù chạy từ cái cổng nhỏ bò qua những nhánh cây lêkima vào đến cửa sổ nhà; đầu dây bên kia là 3 cái lon sữa bò rỗng cột vào nhau.
Nhiều lần như vậy, nhưng chưa lần nào chúng tôi dám "kéo dây gọi Võ Hồng" vì nếu có hân hạnh được ông cho vào nhà, cũng chỉ chào mà không biết nói chuyện gì với một nhà giáo, nhà văn kỳ cựu đáng tuổi ông ngoại của mình.
Văn phong của Võ Hồng là ngôn ngữ của một nhà giáo. Dưới cả hai thể loại truyện ngắn và truyện dài, ông gởi những lời khuyên của một nhà mô phạm đến độc giả. Có những chuyện ngắn về khu rừng với đủ muôn thú sư tử, cọp, nai, sóc… người đọc thấy rõ xã hội loài người với đủ cá tính, đủ trình độ. Có một truyện ngắn về cỏ và cây, nhưng người đọc thấy rõ cây bách tùng được ông gởi gắm hình ảnh một người lãnh đạo, cây chùm rụm (chùm ruột?) mang tính cách của một công dân bình thường lặng lẽ góp phần xây dựng đất nước...
Truyện ngắn "Vĩnh biệt cây trứng cá" lấy được những giọt nước mắt của tôi. Câu chuyện rất đơn giản: có một cậu bé lớn lên cùng với cây trứng cá, một loại cây rất sai trái ăn không ngon nhưng trái non màu xanh có thể làm đồ chơi cho trẻ con. Tuổi thơ của cậu bé êm đềm bình yên dưới bóng mát to rộng của cây trứng cá. Cây trứng cá chứng kiến cậu lớn lên với một tuổi thơ bình yên, hạnh phúc; như một chứng nhân, một người bạn trung thành của cậu. Lúc cây trứng cá bị đốn đi, cậu âm thầm khóc như mất đi một người thân. Tôi mê nhất truyện này vì chừng như nhà văn nghe tôi kể lại tâm trạng khi tôi chia tay với cây trứng cá, rồi giúp tôi trải lòng trên trang sách. Còn hơn thế, tuổi thơ hạnh phúc với bóng râm của cây trứng cá với bóng mát chở che của Ba Mẹ luôn luôn nằm trong lòng tôi mặc dù tôi đã phải vĩnh biệt cả Ba lẫn cây trứng cá.
Mỗi một truyện ngắn của ông trang trải nỗi lòng tâm sự của ai đó. Có lẽ vì vậy ai đã từng đọc qua một tuyển tập truyện ngắn của Võ Hồng đều thấy NHÀ VĂN rất tinh tế và mặc dù chỉ sống trong góc một căn phòng nhỏ nằm trên đường Hồng Bàng ở Nha Trang, ông đã viết giùm được tâm trạng của cả người Việt trong nước lẫn người Việt lưu vong.
Ngẫu nhiên, ông đã tài tình thấy được Lê Thị Thúy của chúng tôi sẽ trở thành Nhánh rong phiêu bạt. Chỉ có khác là "nhánh rong" trên trang sách của Võ Hồng phiên bạt từ tuổi 12 và chấm dứt phiêu bạt trong vòng vài năm. Nhánh rong của chúng tôi, và cả chính tôi, cùng cả triệu người Việt Nam trở thành những "nhánh rong phiêu bạt" cả nhiều thập niên, không biết đến bao giờ mới hết đời phiêu bạt?
Võ Hồng không chỉ thành công trong vai trò một nhà văn, mà những tác phẩm để lại của ông sẽ làm cho Thầy Võ Hồng là một nhà giáo có đông học trò nhất. Không một hội cựu học sinh sinh viên nào lưu lạc ở ngoại quốc không biết đến tự truyện Nửa chữ cũng Thầy của Võ Hồng. Và đã theo gương ông, theo những lời dạy của của ông trải dài trên những trang sách. Ngày nào nhà văn Võ Hồng còn có thêm độc giả, ngày đó nhà giáo Võ Hồng còn có thêm học trò mới.
Cuối tháng 3 năm nay chia tay ông, văn học Việt Nam mất đi một nhà văn mô phạm và chúng tôi mất đi một bậc thầy khả kính trong văn học lẫn đời sống.
Santa Clara, tháng 4/2013
Nguyễn Trần Diệu Hương
Tàu thuyền đánh bắt cá neo đậu ở cảng Quy Nhơn
Bạn thân mến, nhiều lần bạn hỏi tôi:
"Tại sao không về thăm quê cha đất tổ và nơi chôn nhau cắt rốn một lần?"
Tôi cười trừ vì không có câu trả lời thích đáng cho người hỏi và ngay cả chính mình.
Bên nội tôi người Bắc, hầu hết gia đình bên nội di cư vào Nam từ tháng 7 năm 1954, thời điểm mà sông Bến Hải, cầu Hiền Lương là lằn ranh biên giới quốc cộng. Bên ngoại tôi người Huế nhưng khi tôi ra đời thì ông bà ngoại đã sống ở Nha Trang. Vì vậy tôi không có dịp về quê nội hay quê ngoại nghỉ hè như tụi bạn cùng lớp ngày còn nhỏ.
Tôi chào đời ở Quy Nhơn, quê hương của vua Quang Trung Nguyễn Huệ, nhưng chỉ ở đó vỏn vẹn 3 tuần rồi được Mẹ bồng, theo Ba đổi về Nha Trang .
Do vậy, tôi không có một khái niệm nào về Quy Nhơn mặc dù thời đi học khi biết tôi được sinh ra ở Quy Nhơn, tụi bạn cùng lớp luôn trêu chọc là
"Ai về Bình Định mà coi,
Con gái Bình Định múa roi đi quyền"
(trong khi tôi thuộc loại nhiều khi không mở nổi cái nắp của hủ dưa chuột muối "pickle" vẫn bày bán trong các chợ ở Mỹ.)
Tuổi thơ của tôi ở Biên Hòa, gần căn cứ Không quân, thời chiến tranh trước năm 75 hay bị VC pháo kích. Ba tôi dùng cái bể xây bằng xi măng chứa nước trong nhà làm "hầm trú ẩn”. Cái bể hình khối chữ nhật, cao khoảng một thước, dài một mét rưởi và chiều rộng khoảng tám tấc. Mặt trên được che bằng một tấm ván dày hình chữ nhật có cùng chiều rộng với cái bể chứa nước, chiều dài thì chỉ khoảng một thứơc. Trên tấm ván che bể nước có rất nhiều bao cát nhỏ chồng chất lên nhau, ít nhất là cũng năm lớp bao cát. Từ ngày được "biến cải" thành hầm tránh pháo kích, cái hồ luôn khô cạn, nước được chứa trong một cái “thùng phi” lớn.
Thời thơ dại của tôi, chỉ có một lần bị người lớn đánh thức, mắt nhắm mắt mở được Mẹ hay Bà Nội nhấc lên đặt vô "hầm trú ẩn". Hơi lạnh từ gạch và xi măng của thành hồ làm tôi tỉnh ngủ, nhận ra trời đêm vẫn sáng vì ánh hỏa châu. Sáng hôm sau, người ta vẫn sinh hoạt bình thường, vẫn "trôi theo dòng đời" như chiến tranh chưa hề về rất gần thành phố đêm qua.
Trong bối cảnh đó, tôi chưa bao giờ được về thăm quê hương của mình.
Lớn lên, một lần đi thăm Ba trong "tù cải tạo" ở Gia Trung, Gia Lai Kom Tum, Mẹ và tôi phải "ngủ đổ" ở Quy Nhơn. Đó là lần đầu tiên, cũng là lần duy nhất cho đến bây giờ, tôi được thấy nơi chôn nhau cắt rốn của mình . Đó là một đêm bị "luân phiên cúp điện theo định kỳ", bầu trời Quy Nhơn tối đen , chỉ có những ngọn đèn dầu heo hắt, buồn bã như tương lai cùa tôi lúc đó.
Mãi đến bây giờ, Quy Nhơn, trong tôi, vẫn mù mờ, buồn hiu hắt…
Và có lẽ vì vậy, thời gian sống ở quê ngưòi dài hơn thời gian sống ở quê mình,dù đã về Việt Nam thăm thân nhân 4 lần , tôi chưa hề ra Bắc thăm quê nội, hay về Huế thăm quê ngoại.
Tôi không muốn chứng kiến một Nam Định hỗn độn, người ta đạp lên nhân nghĩa để sống còn. Quê nội với tôi phải đẹp và êm đềm như lời kể của Bà Nội năm xưa, phải có những người sâu sắc (dù nghèo và bất đắc chí) như nhà thơ Trần Tế Xương.
Tôi không dám ra Huế sợ làm mất đi hình ảnh thơ mộng của cầu Trường Tiền "sáu vài mười hai nhịp" có những cô nữ sinh Đồng Khánh ngây thơ, trong trắng, đội nón đạp xe ngang cầu. Tôi muốn giữ hình ảnh cuả những "o" bán đậu hủ, bán cơm hến dù nghèo vẫn chân chất ,đàng hoàng, vẫn tha thướt trong tà áo dài cổ truyền, ngay cả lúc phải quang gánh oằn vai, ngược xuôi kiếm sống.
Tôi sợ mình bớt yêu quê hương khi thấy cả nước sông Hương lẫn những cô lái đò không còn tinh khiết như tôi đã được đọc trên những trang sách.
Và như vậy xin tạ tội với tổ tiên vì tôi gắn bó với Santa Clara, nơi tôi sống lâu hơn quê nhà; xin tạ tội với ông bà, tôi chưa một lần về thắp một nén hương tưởng nhớ trước bia mộ tiền nhân. Giống như loài chim thiên di, tôi luôn nhớ cội nguồn và có một quê hương thân yêu trong tâm tưởng.
Và xin giải bày với bạn tại sao tôi chưa một lần về thăm quê hương. Xin hãy để tôi luôn nghĩ quê hương là nơi đẹp nhất trên đời....
Nguyễn Trần Diệu Hương
Santa Clara , CA July /2012
Hình: photos.com
Đầu mùa Thu, lá trở vàng như quy luật thiên nhiên. Ở quê nhà, Cô giáo Việt văn ngày xưa là một trong những chiếc lá vàng lìa cành đầu tiên.
Cô về hưu gần hai mươi năm và sống quạnh quẽ ở một góc Saigon , nhưng lúc nào Cô cũng rạng rỡ nụ cười trên môi. Vì bên cạnh Cô có đồng nghiệp, và học trò cũ. Một vài người trông còn đứng tuổi hơn Cô, nhưng có dịp gặp Cô họ vẫn cung kính như xưa.
Ngày Cô trở bệnh nặng, Cô nhắn tin cho thân nhân ờ Pháp về. Người thân của Cô vội vã về ngay nhưng đường xa ngàn dặm, cũng phải mất hai ngày mới đến. Đồng nghiệp cũ, học trò xưa, người nhỏ nhất tóc cũng chớm đổi màu, tận tình chăm sóc Cô từ nhà vào bệnh viện. Rồi bệnh viện bó tay, Cô trờ về nhà. Ngôi nhà không còn trống vắng, vì đầy tình nghĩa ngày xưa. Học trò ờ VN gởi E mail cho bạn học ở khắp nơi từ Châu Úc, Châu Âu, qua Châu Mỹ báo tin "Cô chỉ xin Phật cho Cô được sống thêm một ngày để gặp được cháu Cô từ Pháp về".
Học trò xưa lưu lạc quê người, mờ mắt chạy đua theo kim đồng hồ vì nợ áo cơm , nhưng vẫn nhạt nhòa nước mắt thương Cô.
Ngày đưa tang Cô, hàng xóm kinh ngạc vì đó là đám ma lớn nhất vùng. Không có lễ truy điệu cùa nhà nước, không có kèn trống xênh xang, nhưng có những con mắt đỏ hoe cùa "học trò già”, có nỗi ngậm ngùi của đồng nghiệp. Những tràng hoa phúng điếu đến từ khắp nơi trên thế giới, không rực rỡ màu sắc mà chì mỗi một màu trắng như màu áo học trò.
Học trò ờ VN đọc điếu văn ,thay mặt bạn bè khắp thế giới , dù ở góc nào trên địa cầu cũng chân thành thương Cô, một nhà giáo mẫu mực.
Tình nghĩa thầy trò còn thấy ở một lề đường bụi bặm của Tây Ninh 30 năm trước. Có người học trò cũ trong y phục chỉnh tề của nhà giáo đi chấm kỳ thi tốt nghiệp Trung học. Một khoảnh khắc tình cờ, từ cửa sổ phòng coi thi nhìn ra lề đường, người học trò xưa , lúc đó là phó chủ khảo của Hội đồng chấm thi, chợt nhận ra bóng dáng ông Thầy dạy Toán của mình năm lớp 9 ở Biên Hòa ngồi ở lề đường bên kia đối diện trước cổng trường, đang lui cui sửa một đôi giày cũ.
Lòng chùng xuống, nhưng nhà giáo trẻ đành phải đợi đến cuối buổi thi. Trưa hôm đó, xong mọi công việc, thay vì đi ăn trưa, anh băng qua đường đến chào Thầy:
- Thưa Thầy, em chào Thầy.
Ông vá giày, đen đủi vì nắng mùa hè, nhem nhuốc vì bụi đường (và cả "bụi đời" sau biến cố tháng 4/75) nhưng đôi mắt vẫn sáng, điềm tĩnh như phong cách nhà giáo trước tháng 4/75, ngước lên ngạc nhiên lẫn vui mừng:
- A! Thanh đó hả? Làm gì ở đây? Chờ Thầy một chút, phài vá xong đôi giày này để một giờ người ta đến lấy.
Người học trò cũ ngồi xuống lề đường, bên cạnh chiếc thùng gỗ đựng đồ nghề sửa giày, nhem nhuốc vì bụi đường, đứng chơ vơ bên lề đường như người chù cùa nó.
Anh thương Thầy lắm, cứ áy náy không làm gì được để giúp Thầy. Cái chemise trắng cùa anh nổi bật giữa màu sắc xám xịt trong "gian hàng lưu động" ở lề đường của ông Thầy cũ.
Chì tám năm trước, Thầy và anh cùng mặc áo trắng. Trong lớp học, Thầy đứng trên bục giảng, anh ngồi ở bàn đầu nghe Thầy dạy cách giải phương trình bậc hai. Bây giờ Thầy mặc cái áo kaki màu olive sờn cũ bạc màu, cũng thay đổi như xã hội đương thời. Duy có đôi mắt vẫn tinh anh, vẫn còn là đôi mắt của một nhà mô phạm. Bụi đường bay tung tóe không làm đôi mắt Thầy vẫn đục.
Khi người khách đến lấy giày, ông ta tưởng anh là khách hàng, khuyên anh bằng một thứ ngôn ngữ mới du nhập vào miền Nam:
- Này, ngồi đợi như thế thì chỉ có "rách việc". Vừa phí thì giờ vừa không được vá giày kỹ lưỡng.
Anh nhũn nhặn trả lời:
- Thưa không, tôi ngồi đợi Thầy tôi làm việc xong để được thăm Thầy.
Ông khách tròn mắt ngạc nhiên và nhận xét thật lòng:
- Thầy trò miền Nam các anh quý hóa thật!
Hôm đó khi Thầy làm xong công việc, anh chì còn kịp cầm tay Thầy ân cần thăm hỏi. Không dám dốc nửa tháng tiền lương của một "giáo viên Toán cấp 3" đặt vào tay Thầy vì Thanh biết Thầy sẽ không bao giờ nhận.
Ba mươi năm sau ngày gặp Thầy ờ lề đường Tây Ninh, Thanh vẫn dạy Toán cho học trò lớn hơn ở bậc Đại học. Và Thầy tóc đã ngã màu sương khói, được hệ thống an sinh xã hội ở Mỹ chu cấp trong giai đoạn hoàng hôn của cuộc đời.
Thanh kề chuyện cho một người học trò cũ nghe. Cô đã so sánh nỗi kinh ngạc của người khách hàng ở lề đường của Thầy năm xưa với sự ngạc nhiên của cả xóm ngày tang lễ Cô giáo dạy Việt văn thời Trung học.
Nếu người ta biết đến những câu nói truyền miệng ngày xưa "Nhất tự vi sư, bán tự vi sư" hay "Trọng Thầy nới được làm Thầy" thì trong cá hai trường hợp đều không có sự ngạc nhiên. Chuyện bình thường trong xã hội này không dưng trở thành nỗi ngạc nhiên trong một thể chế khác. Hình như có những chiếc lá vàng may mắn đã bay lượn trong hoan ca trước khi về với đất...
NGUYỄN TRẦN DIỆU HƯƠNG
Hình: ASSOCIATED PRESS
Mỗi dịp cuối năm dương lịch, khi người ta còn mượn ánh đèn trang hoàng mùa Giáng sinh soi sáng màn đêm giá rét ở Mỹ, tôi lại nhớ đến tiểu thuyết "White Teeth" của nhà văn trẻ người Anh Zadie Smith.
Khởi đầu từ một truyện ngắn được phổ biến trên báo của trường Đại học Cambridge ở phía Bắc Luân Đôn, một nhà xuất bản có uy tín ký contract với cô sinh viên hai dòng máu British và Jamaica. Thế là tiểu thuyết "White Teeth" thành hình và trở thành the best seller, mặc dù lúc đó Zadie Smith mới ở năm cuối của phân khoa Văn chương ở Cambridge.
Nhiều cây bút tên tuổi của các nước đã phân tích, phê bình "White Teeth", tôi không dám "múa rìu qua mắt thợ", chỉ xin phép được nói về sự liên quan của “White Teeth” với năm mới.
Tôi thích "White Teeth” vì câu chuyện mở đầu vào ngày đầu năm 1975. [Có lẽ vì Zadie Smith sinh năm 1975?] Như một "hội chứng Việt Nam", tôi thích đọc những tác phẩm có bối cảnh năm 1975. Nhân vật chính là Archie, một người đàn ông trung niên thuộc tầng lớp lao động ở ngoại ô Luân Đôn, không thể tự quyết định, mà luôn luôn tung một đồng tiền cắc lên trời để chờ hên xui may rủi quyết định đời mình. Sau tiệc New Year Eve (giao thừa dương lịch), bị lâm vào bế tắc, bà vợ gốc Ý dứt áo ra đi, Archie tung đồng tiền cắc lên để quyết định số phận của mình. Khi Archie cho hơi gas ra đầy xe để tự tử thì được một người cứu vì cái xe cũ của Archie đậu ở một vị trí khác thường vào thời khắc giao mùa của năm mới và năm cũ.
Không biết lúc viết White Teeth, Zadie Smith ở tuổi hai mươi có tin định mệnh không? Nhưng những tác phẩm của cô luôn có hình ảnh của định mệnh và sự thông cảm, bao dung.
Nói ra thì ít người tin nhưng tôi biết đến "White Teeth" trong một lần lên Google mò mẩm tìm sử liệu về tháng 4 năm 1975. Tình cờ đưa tôi "làm quen" với tác giả Zadie Smith.
Và từ đó cứ vào tuần lễ sau Giáng sinh, khi các cửa hàng đồng loạt bán các sản phẩm cho "count down party" vào thời khắc giao thừa dương lịch, các cơ quan truyền thông của Mỹ loan báo những nhân vật và sự kiện lớn nhất trong năm, tôi lại nhớ định mệnh trong "White Teeth" cứu anh chàng Archie thoát chết.
Mấy ngày nghỉ lễ cuối năm, trời mùa đông lạnh buốt dưới độ đông đá, tôi thích đóng cửa nằm nhà đọc sách để nếu có soi gương thấy mặt mày mình vẫn còn phảng phất nét học trò… già. Xem ra chỉ có mỗi một tuần lễ từ Giáng sinh đến Tết dương lịch đầu năm Tây là khoảng thời gian duy nhất mọi sinh hoạt ở Mỹ chậm lại. Đường sá vắng hẳn so với ngày thường. Hình như mọi người đều đang bận "tính sổ cuối năm".
Sổ thương mại, sổ kế toán, sổ ngân hàng...dù có phức tạp đến đâu, cũng có công thức. Nhưng sổ đời thì tính hoài vẫn không như ý.
"Tính sổ cuối năm" có đủ cộng, trừ, nhân, chia. Chỉ cần chuyển dịch "con chuột" và "mũi tên" trên monitor thì các phép tính thay đổi được theo ý muốn. Nhưng quyển sổ cuộc đời thì dù có tính kiểu nào đi nữa, dấu cộng cùa thời gian vẫn vô tình, tàn nhẫn phân phát đều đặn cho tất cả động vật và thực vật. Dấu nhân của tình cảm vẫn thầm lặng khắc ghi. Dấu trừ luôn luôn có mặt trong sức khỏe và sắc diện. Dấu chia hiện diện trong tư tưởng nên thiên tài luôn hiếm quý ở trần gian. Ước gì con người hoán đổi được vị trí của bốn phép tính tưởng như đơn giản mà phức tạp hơn cả mọi lớp toán cao cấp trên đời. Chẳng hạn nếu dấu cộng nằm trước sức khỏe và tuổi trẻ. Dấu trừ đi theo ích kỷ, và oán thù. Dấu chia hiện diện cùng ân sủng và hạnh phúc. Dấu nhân gắn bó với chia xẻ và thương yêu thì thiên đàng rất gần và có thật ở đời sống hàng ngày.
Ngày xưa học lớp 12 chuyên toán, chúng tôi giải được rất nhiều bài toán khó từ lượng giác, đạo hàm đến tích phân... Vậy mà hơn nửa cuộc đời vẫn vất vả loay hoay, đôi khi bó tay, trước những cộng trừ nhân chia đơn giản của cuộc đời.
Bài toán cuộc đời chưa và có lẽ sẽ chẳng bao giờ tìm được ẩn số hài lòng người giải nhưng cứ mỗi một năm mới đến lại đem theo hy vọng cho một dấu nhân của chia xẻ và thương yêu, một dấu trừ cho bạo lực và chiến tranh. Được như vậy thì có lẽ mùa Xuân sẽ vẫn ở quanh năm trên quyển sổ cuộc đời.
Cuối năm 2011
NGUYỄN TRẦN DIỆU HƯƠNG
28.09.2011
Truyện dài đầu tiên tôi đọc trong đời là tác phẩm "Bồn lừa" của nhà văn Duyên Anh. Trước đó, tôi đọc những truyện, không dài cũng không ngắn, trên những tác phẩm Tuổi hoa cùa các tác giả còn rất trẻ, nhiều người trong số họ vẫn còn ôm sách vở đến trường mỗi ngày. Trong đó, tôi nhớ và thích nhất tác phẩm "Nhóm lửa" và "Chiếc lá thuộc bài " cùa cùa hai "nhà văn học trò" khá nổi tiếng với các độc giả teenagers.
Lúc đó, chưa đến mười tuổi, tôi không đủ khôn để nhận xét bút pháp và lối viết cùa các nhà văn, dù đã lão luyện trong nghề, sống bằng tiền bản quyền, hay chỉ mới vương mang nghiệp văn chương, chỉ có tiền nhuận bút đủ để dẫn bạn bè đi coi movie ở các rạp hát sang trọng ở Saigon đầu thập niên 70. Nhưng dấu ấn của các tác phẩm đó và bút pháp của các tác giả đã để lại một ấn tượng sâu đậm trong tôi. Có thể vì đó là những truyện rất hay, các tác giả đả viết bằng cả tấm lòng, không phải chỉ vì tiền nhuận bút; có thể vì đó là có thể vì đó là những chuyện dài đầu tiên tôi được đọc trong đời.
Lên Trung học, một giáo sư dạy Công dân đọc cho chúng tôi nghe bản dich Việt ngữ tác phẩm “Le Petit Prince” cùa Antoine de Saint-Exupéry mỗi tuần vài trang. Cuối năm học, chúng tôi chỉ hiểu lờ mờ những triết lý được gởi theo những ý nghĩ của ông Hoàng tử trẻ thơ, nhưng trong tâm hồn chúng tôi vẫn có một góc nhỏ cho “Hoàng tử bé”.
Những năm cuối Trung học, lịch sử đất nước sang trang, đời sống đảo lộn, như một con đà điểu chúi đầu vào cát sa mạc để trốn những đe dọa của thiên nhiên, tôi chúi đầu vào sách vở để thấy đời vẫn còn dễ thương. Đó là lúc tôi dành một mãng lớn "tình yêu văn chương" cùa mình cho nhà văn Gerald Gordon và đứa con tinh thần nổi tiếng khắp thế giới của ông “Let the day perish”, bản dịch Việt ngữ là "Hãy để ngày ấy lụi tàn".
Vào Đại học ở Mỹ, tôi được học “Uncle Tom’s Cabin” cùa nhà văn Harriet Beecher Stowe trong một lớp Triết học, và “Of Mice and Men” cùa nhà văn John Steinbeck trong một lớp Văn học. Tấm lòng của các nhà văn và lối giảng dạy nhiệt tình của các vị giáo sư ở SJSU lúc đó đã đặt cả "Túp lều của chú Tom" lẫn"Chuột và Người" vào tâm hồn tôi.
Cũng ở môi trưởng tự do cùa quê hương thứ hai, tôi được đọc “One Day in the Life of Ivan Denisovich” để thấy là tấm lòng bao la cùa Aleksandr Solzhenitsyn. Nếu Solzhenitsyn ra ứng cử Tổng thống, chắc chắn là tôi sẽ tự nguyện vận động tranh cử cho NHÀ VĂN tài hoa này.
Như bất cứ một người thích đọc nào, tôi cũng tập tành viết lách từ thời thơ dại, dù chỉ có một độc giả duy nhất là chính mình. Không muốn, nhưng bằng một cách nào đó, bút pháp của các nhà văn tôi thích đã ảnh hưởng đến lối viết của tôi. Văn phong của họ đã thầm sâu vào tiềm thức của tôi dù tôi chưa một lần được gặp họ, chỉ mới "văn kỳ thanh bất kiến kỳ hình".
Gần hai mươi năm nay, từ khi xong "nợ đèn sách", dù vẫn còn tất bật với "nợ áo cơm", dù chưa bao giờ dám mơ tưởng mình là nhà văn, tôi vẫn dành thời gian cho hai mươi bốn chữ cái kỳ diệu đã giúp nhân loại tiến bộ không ngừng.
Dù chỉ viết lách lăng nhăng, chẳng đâu vào đâu, thỉnh thoảng tôi cũng nhận được một vài lời khen từ độc giả ở khắp nơi. Những lúc như vậy, tôi vẫn thầm cảm ơn các NHÀ VĂN Việt Nam: Duyên Anh, Nhã Ca, Mai Thảo...; các NHÀ VĂN Mỹ John Steinbeck, Harriet Beecher Stowe; NHÀ VĂN Pháp Antoine de Saint-Exupéry, NHÀ VĂN Nga Aleksandr Solzhenitsyn, và NHÀ VĂN Nam Phi Gerald Gordon. (Tôi muốn dùng chữ NHÀ VĂN viết hoa để nhắc đến những cây bút kể trên, để phân biệt với chữ nhà văn viết chữ nhỏ cùa những ‘nhà văn tự phong “hay được bạn bè thân thiết 'tấn phong" một cách hào phóng).
Các NHÀ VĂN với năng khiếu bẩm sinh, với cảm xúc trước một sự việc nào đó đã sáng tạo ra những đứa con tinh thần "sống lâu" ít nhất cũng vài thế kỳ và có một sồ tác phẩm có thể đã ở trong lòng cả chục và có khi cả trăm thế hệ độc giả.
Một lần, tôi nhận được món quà giáng sinh sớm và có giá trị cũng liên quan đến một NHÀ VĂN. Đó là một ngày trời lạnh se sắt, đầy sương mù, tôi được một người bạn thân (cũng là một người rất thích "Of Mice and Men" cả trên sách vở lẫn trên màn ảnh) đưa đến thăm nơi an nghĩ ngàn đời của John Steinbeck ở Salinas, California nhân ngày ông mất, 20 tháng 12.
Không biết di ảnh của John Steinbeck hay cái bình đựng tro cốt cùa ông nằm giữa những người thân yêu đã làm chúng tôi mang quê nhà xa xôi vào những trang giấy, như trong các tác phẩm của nhà văn tài hoa này luôn có hình ành Salinas, nơi ông sinh ra và lớn lên.
Không lâu sau đó, tôi thấy mình không được trải qua thời niên thiếu ở quê hương, không bao giờ đưa được quê nhà vào lòng người đọc một cách tài tình như John Steinbeck đã đưa Salinas vào văn chương (và cả điện ảnh) hay như Duyên Anh đã đưa Thái Bình vào lòng cả trăm ngàn độc giả ở miền Nam.
Hai NHÀ VĂN này tài hoa đến nỗi rất nhiều độc giả của họ (mà chúng tôi là một điển hình) đều xin nhận cả Salinas và Thái Bình làm quê hương.
Mãi về sau, sau này có dịp đọc nhiều hơn, tôi nhận ra rằng quê hương luôn phảng phất trong các tác phẩm của các NHÀ VĂN. Quê ngoại với tôi đẹp hơn nhiều và rất rõ nét từng bụi cỏ, gốc cây, từng nhịp cầu, ngõ ngách (mặc dù tôi chưa bao giở được về thăm Huế) nhờ các tác phẫm của nhà văn Nhã Ca. Và Nha Trang, thành phố nơi tôi lớn lên, êm đềm, thân thiết hơn; từng hạt cát, viên sỏi trên đường nằm lại trong lòng tôi qua các tự truyện của nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng (cũng là Thầy dạy Triết cho các đàn anh đàn chị ở trường Ngô Quyền xưa).
Từ lúc nào không nhớ, gần đây khi ngồi vào gõ keyboard viết bất cứ đề tài nào, quê hương vẫn phảng phất đâu đó. trên những trang giấy vụng về, thô sơ cùa tôi. Có quê hương trong bài viết tức là có tấm lòng, và có tấm lòng là không ít thì nhiều cũng có những độc giả trung thành.
Càng có nhiều độc giả, tôi càng cảm ơn các NHÀ VĂN đã dạy cách viết văn gián tiếp cho tôi và các Thầy Cô dạy Quốc văn suốt thời đi học đã trực tiếp dạy tôi cách viết văn.
Và như vậy, Quê hương và Bụt nhà rất thiêng trong thế giới văn chương chữ nghĩa.
Nguyễn Trần Diệu Hương