Truyện 1
- Bụt Nhà Vẫn Thiêng
- Cổng Trường Trong Trí Nhớ
- Vượt Biển Một Mình
- Đoạn Cuối Hồi Ký Của Ba
- Người Giao Pizza Đêm Halloween
Bụt Nhà Vẫn Thiêng
Truyện dài đầu tiên tôi đọc trong đời là tác phẩm "Bồn lừa" của nhà văn Duyên Anh. Trước đó, tôi đọc những truyện, không dài cũng không ngắn, trên những tác phẩm Tuổi hoa cùa các tác giả còn rất trẻ, nhiều người trong số họ vẫn còn ôm sách vở đến trường mỗi ngày. Trong đó, tôi nhớ và thích nhất tác phẩm "Nhóm lửa" và "Chiếc lá thuộc bài " cùa cùa hai "nhà văn học trò" khá nổi tiếng với các độc giả teenagers.
Lúc đó, chưa đến mười tuổi, tôi không đủ khôn để nhận xét bút pháp và lối viết cùa các nhà văn, dù đã lão luyện trong nghề, sống bằng tiền bản quyền, hay chỉ mới vương mang nghiệp văn chương, chỉ có tiền nhuận bút đủ để dẫn bạn bè đi coi movie ở các rạp hát sang trọng ở Saigon đầu thập niên 70. Nhưng dấu ấn của các tác phẩm đó và bút pháp của các tác giả đã để lại một ấn tượng sâu đậm trong tôi. Có thể vì đó là những truyện rất hay, các tác giả đả viết bằng cả tấm lòng, không phải chỉ vì tiền nhuận bút; có thể vì đó là có thể vì đó là những chuyện dài đầu tiên tôi được đọc trong đời.
Lên Trung học, một giáo sư dạy Công dân đọc cho chúng tôi nghe bản dich Việt ngữ tác phẩm “Le Petit Prince” cùa Antoine de Saint-Exupéry mỗi tuần vài trang. Cuối năm học, chúng tôi chỉ hiểu lờ mờ những triết lý được gởi theo những ý nghĩ của ông Hoàng tử trẻ thơ, nhưng trong tâm hồn chúng tôi vẫn có một góc nhỏ cho “Hoàng tử bé”.
Những năm cuối Trung học, lịch sử đất nước sang trang, đời sống đảo lộn, như một con đà điểu chúi đầu vào cát sa mạc để trốn những đe dọa của thiên nhiên, tôi chúi đầu vào sách vở để thấy đời vẫn còn dễ thương. Đó là lúc tôi dành một mãng lớn "tình yêu văn chương" cùa mình cho nhà văn Gerald Gordon và đứa con tinh thần nổi tiếng khắp thế giới của ông “Let the day perish”, bản dịch Việt ngữ là "Hãy để ngày ấy lụi tàn".
Vào Đại học ở Mỹ, tôi được học “Uncle Tom’s Cabin” cùa nhà văn Harriet Beecher Stowe trong một lớp Triết học, và “Of Mice and Men” cùa nhà văn John Steinbeck trong một lớp Văn học. Tấm lòng của các nhà văn và lối giảng dạy nhiệt tình của các vị giáo sư ở SJSU lúc đó đã đặt cả "Túp lều của chú Tom" lẫn"Chuột và Người" vào tâm hồn tôi.
Cũng ở môi trưởng tự do cùa quê hương thứ hai, tôi được đọc “One Day in the Life of Ivan Denisovich” để thấy là tấm lòng bao la cùa Aleksandr Solzhenitsyn. Nếu Solzhenitsyn ra ứng cử Tổng thống, chắc chắn là tôi sẽ tự nguyện vận động tranh cử cho NHÀ VĂN tài hoa này.
Như bất cứ một người thích đọc nào, tôi cũng tập tành viết lách từ thời thơ dại, dù chỉ có một độc giả duy nhất là chính mình. Không muốn, nhưng bằng một cách nào đó, bút pháp của các nhà văn tôi thích đã ảnh hưởng đến lối viết của tôi. Văn phong của họ đã thầm sâu vào tiềm thức của tôi dù tôi chưa một lần được gặp họ, chỉ mới "văn kỳ thanh bất kiến kỳ hình".
Gần hai mươi năm nay, từ khi xong "nợ đèn sách", dù vẫn còn tất bật với "nợ áo cơm", dù chưa bao giờ dám mơ tưởng mình là nhà văn, tôi vẫn dành thời gian cho hai mươi bốn chữ cái kỳ diệu đã giúp nhân loại tiến bộ không ngừng.
Dù chỉ viết lách lăng nhăng, chẳng đâu vào đâu, thỉnh thoảng tôi cũng nhận được một vài lời khen từ độc giả ở khắp nơi. Những lúc như vậy, tôi vẫn thầm cảm ơn các NHÀ VĂN Việt Nam: Duyên Anh, Nhã Ca, Mai Thảo...; các NHÀ VĂN Mỹ John Steinbeck, Harriet Beecher Stowe; NHÀ VĂN Pháp Antoine de Saint-Exupéry, NHÀ VĂN Nga Aleksandr Solzhenitsyn, và NHÀ VĂN Nam Phi Gerald Gordon. (Tôi muốn dùng chữ NHÀ VĂN viết hoa để nhắc đến những cây bút kể trên, để phân biệt với chữ nhà văn viết chữ nhỏ cùa những ‘nhà văn tự phong “hay được bạn bè thân thiết 'tấn phong" một cách hào phóng).
Các NHÀ VĂN với năng khiếu bẩm sinh, với cảm xúc trước một sự việc nào đó đã sáng tạo ra những đứa con tinh thần "sống lâu" ít nhất cũng vài thế kỳ và có một sồ tác phẩm có thể đã ở trong lòng cả chục và có khi cả trăm thế hệ độc giả.
Một lần, tôi nhận được món quà giáng sinh sớm và có giá trị cũng liên quan đến một NHÀ VĂN. Đó là một ngày trời lạnh se sắt, đầy sương mù, tôi được một người bạn thân (cũng là một người rất thích "Of Mice and Men" cả trên sách vở lẫn trên màn ảnh) đưa đến thăm nơi an nghĩ ngàn đời của John Steinbeck ở Salinas, California nhân ngày ông mất, 20 tháng 12.
Không biết di ảnh của John Steinbeck hay cái bình đựng tro cốt cùa ông nằm giữa những người thân yêu đã làm chúng tôi mang quê nhà xa xôi vào những trang giấy, như trong các tác phẩm của nhà văn tài hoa này luôn có hình ành Salinas, nơi ông sinh ra và lớn lên.
Không lâu sau đó, tôi thấy mình không được trải qua thời niên thiếu ở quê hương, không bao giờ đưa được quê nhà vào lòng người đọc một cách tài tình như John Steinbeck đã đưa Salinas vào văn chương (và cả điện ảnh) hay như Duyên Anh đã đưa Thái Bình vào lòng cả trăm ngàn độc giả ở miền Nam.
Hai NHÀ VĂN này tài hoa đến nỗi rất nhiều độc giả của họ (mà chúng tôi là một điển hình) đều xin nhận cả Salinas và Thái Bình làm quê hương.
Mãi về sau, sau này có dịp đọc nhiều hơn, tôi nhận ra rằng quê hương luôn phảng phất trong các tác phẩm của các NHÀ VĂN. Quê ngoại với tôi đẹp hơn nhiều và rất rõ nét từng bụi cỏ, gốc cây, từng nhịp cầu, ngõ ngách (mặc dù tôi chưa bao giở được về thăm Huế) nhờ các tác phẫm của nhà văn Nhã Ca. Và Nha Trang, thành phố nơi tôi lớn lên, êm đềm, thân thiết hơn; từng hạt cát, viên sỏi trên đường nằm lại trong lòng tôi qua các tự truyện của nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng (cũng là Thầy dạy Triết cho các đàn anh đàn chị ở trường Ngô Quyền xưa).
Từ lúc nào không nhớ, gần đây khi ngồi vào gõ keyboard viết bất cứ đề tài nào, quê hương vẫn phảng phất đâu đó. trên những trang giấy vụng về, thô sơ cùa tôi. Có quê hương trong bài viết tức là có tấm lòng, và có tấm lòng là không ít thì nhiều cũng có những độc giả trung thành.
Càng có nhiều độc giả, tôi càng cảm ơn các NHÀ VĂN đã dạy cách viết văn gián tiếp cho tôi và các Thầy Cô dạy Quốc văn suốt thời đi học đã trực tiếp dạy tôi cách viết văn.
Và như vậy, Quê hương và Bụt nhà rất thiêng trong thế giới văn chương chữ nghĩa.
Nguyễn Trần Diệu Hương
Cổng Trường Trong Trí Nhớ
Đặt chân vào bất cứ một trường học nào ở Mỹ, An cũng đi bộ hoặc lái xe lòng vòng quanh khuôn viên của trường để tìm cổng trường mà không bao giờ tìm thấy. Là vì trường học ở Mỹ, dù là trường Tiểu học, Trung học, hay Đại học đều có những bãi đậu xe rộng quanh trường, nhiều trường còn có những sân vận động nhỏ với đường chạy track field quanh trường. Thời còn ở trường Đại học, vào cuối khóa học mùa xuân, gần qua mùa hè, trời ấm lên, giữa những giờ học, An vẫn hay đi quanh quẩn trong campus rộng mênh mông mà tương tư... những cái cổng trường ở Việt Nam.
®
Cổng trường Mẫu giáo của An màu xanh dương đậm, nổi bật giữa hàng rào trắng rất nhỏ nhưng rất dễ thương như những em bé học trò ngây thơ bé bỏng. Đó là hình ảnh đẹp nhất của cuộc đời An thu vào ký ức lúc bắt đầu bước ra khỏi vòng tay của Ba Mẹ và anh chị em trong nhà.
Lên lớp một, cổng trường Tiểu học có màu xanh dương nhạt cũng giống như hình thức tất cả các cổng trường ở Việt Nam, một cái cổng chính rất lớn dài khoảng mười mét, cao khoảng sáu mét. Nằm giữa là bảng tên trường rất lớn dựng trên hai cái cột chính của cổng trường. Hai bên cái cột lớn đó là hai cổng nhỏ, kích thước tương tự cửa chính của nhà ở bên Mỹ. Cả ba cổng đều mở rộng một tiếng trước giờ vô học buổi sáng, hay buổi chiều. Chuông vô học vừa reo lên, ông cai trường đóng cái cổng chính lại, khóa bằng một cái ống khóa rất lớn dưới con mắt của những học sinh Tiểu học. Hai cổng phụ vẫn mở để cho các học sinh đi trễ có thể vào lớp. Mười lăm phút sau lúc tiếng chuông vào lớp reng lên, cổng phụ bên phải đóng lại, chốt cẩn thận bên trong, nhưng không có khóa. Nửa giờ sau tiếng chuông, cái cổng phụ bên trái cũng đóng luôn. Lúc đó đúng là "cửa đóng then cài, nội bất xuất, ngoại bất nhập". Thời đó ở Việt Nam, không có Child Molestation, không có cảnh bắt cóc con nít đòi tiền chuộc, nhưng cổng trường đóng để đề phòng lũ học trò Tiểu học trong giờ ra chơi, đánh vũ cầu hay chơi banh văng ra khỏi cổng trường, sẽ cắm cổ chạy ra lượm, không chịu nhìn xe qua lại, dễ xảy ra tai nạn. Cổng chính chỉ mở rộng sau khi tiếng chuông tan học vang lên lảnh lót, đánh thức một vài đứa ngồi những bàn ở cuối lớp đang lim dim gần ngủ gục, đánh thức luôn cái bao tử rỗng tuếch của những cô cậu học trò ở sức ăn như "tằm ăn lên" thời thơ dại.
®
Vào lớp sáu, lên Trung học, ở tỉnh lỵ nhỏ, có một trường Trung học Công lập duy nhất, con gái học buổi sáng, con trai học buổi chiều, cái cổng trường vẫn là một hình ảnh đậm nét trong đầu An đúng như câu "cửa Khổng sân Trình". Dù trường lớn hơn, cổng trường rộng hơn, cao hơn nhưng hình thức thì vẫn vậy. Cổng chính ở giữa, hai cái cột ở hai bên, mỗi cột cao khoảng mười thước, hình khối vuông, mỗi cạnh độ năm gang tay người lớn. Hai cổng nhỏ hai bên, mỗi cổng chỉ rộng khoảng ba thước, nối cổng chính với hàng rào quét vôi vàng bao quanh trường. Chỉ có vậy thôi nhưng đó là cả cái cổng dẫn vào "thánh địa Trung học công lập" của những học sinh Tiểu học được đậu vào lớp sáu của ngôi trường công lập duy nhất trong Tỉnh.
Đến lúc được vào lớp sáu của trường, An mới có dịp "khám phá" là trường còn có một "cổng sau", nghĩa là một lối đi nhỏ phía sau trường, nối với con hẻm bên cạnh, mà lũ học trò lớp sáu của An còn nhỏ, đủ để len qua những bụi rậm nhỏ để vào hay ra khỏi trường mà không cần phải qua cổng chính, chỉ đóng và mở trước giờ vào học hay sau giờ tan học. Chưa bao giờ thấy những đứa nhỏ con "được việc" như vậy; là vì nhỏ con nên có thể chui ra, chui vô khoảng hở ở hàng rào, qua cái chợ nhỏ bên kia đường để mua quà vặt cho cả lớp. Cả lớp gọi đó là cổng sau, là nơi An và các bạn có thể vào ra trường mà không ai biết, kể cả các thầy cô Giám thị, chuyên môn để mắt đến lũ học trò tinh ranh, nghịch ngợm. Còn hơn thế nữa, mỗi lần đi trễ, cổng trường đã đóng, An và bạn bè chỉ việc chui hàng rào và an toàn vào lớp mà các thầy cô Giám thị không hề biết.
Hai bên cổng trường là hai nhà để xe mái lợp tôn, nơi các lớp nhỏ như lớp An để xe đạp và các anh chị lớp lớn để xe PC, Yamaha, Honda... Có những buổi trưa trời nắng gắt của miền Nam mưa nắng hai mùa, nhìn lũ học trò mặt mày phờ phạc (không hiểu là vì đói bụng, vì trời nắng hay vì một bài toán khó vừa học sáng nay ở trong lớp?), thầy Tổng Giám thị cho trồng hai cái cây con, cao khoảng một thước, nghe nói lúc cây lớn lên sẽ thành hai cây cổ thụ để có bóng mát cho học trò đứng chờ đến phiên lấy xe từ hai nhà để xe, Không biết ai đã trực tiếp trồng, nhưng cây chỉ được trồng từ giữa năm An học lớp sáu. Người tưới cây không ai khác hơn là học sinh khối lớp sáu của An (nhưng học sinh sẽ có cơ hội được "hưởng hạnh phúc đứng dưới cây cao bóng mát", vì còn đến sáu năm nữa lớp An mới ra khỏi trường). Thầy Tổng Giám thị còn ân cần đặt cho "đội tưới cây" một cái tên rất kêu "đội Cảnh sinh" (nghe giông giống cách gọi ngắn đi từ "Cảnh sát của học sinh"?) . Thế là sáu lớp 6 con gái học buổi sáng và sáu lớp 6 con trai học buổi chiều thay phiên nhau tưới cây, mỗi ngày một lớp (thời đó ở Việt Nam học sinh đi học sáu ngày mỗi tuần). Cả lớp An chăm chỉ tưới cây, ngay cả những ngày trời mưa. Học trò lớp sáu còn nhỏ, chỉ mười hay mười một tuổi, nên chưa biết làm điệu, và hăng hái thay phiên nhau cứ mỗi lần hai đứa xách nước từ cái vòi nước ở sân sau ra cổng trường tưới hai cái cây con đang lớn. Còn hơn thế nữa, mỗi lần An tan học, nước uống còn dư trong cái chai nhỏ mang theo, chưa uống hết (vì giờ ra chơi đã uống nước chanh muối hay nước xí muội ở hai cái quán nhỏ trong sân trường) được "hào phóng" tặng hết cho hai cái cây con. Cuối năm lớp 6, An và các bạn chỉ lớn thêm được vài phân, nhưng hai cái cây thì lớn nhanh như thổi, từ một thước (nghĩa là thấp hơn học sinh lớp sáu) đã cao hẳn lên vượt trội cả lớp, tuy chưa cho được bóng mát như trong dự định của Thầy Tổng Giám Thị và trong tưởng tượng của học sinh lớp 6 của An.
Lên lớp 7, "nhiệm vụ cao cả" của học sinh lớp 6 tưới cây mỗi ngày, được lớp An trao lại cho lớp đàn em vừa đậu vào lớp 6 trường Trung học. Nhưng An và các bạn vẫn "để mắt" đến hai cái cây thân yêu ở cạnh cổng trường, mà cả lớp đồng ý đặt tên là "cây si". Mỗi giờ tan học, mặc dù đã không còn ở "đội Cảnh sinh", hôm nào An và các bạn có tiền uống nước chanh muối trong giờ ra chơi, hôm đó cây cũng được "uống ... nước đá cục lạnh buốt ". Lúc đó, mỗi lần nhìn lên ngọn của cây, An và các bạn phải ngước cổ nhìn lên thay vì cúi đầu nhìn xuống như dạo cây mới được trồng.
Không biết các anh chị lớp lớn có để ý đến cái cây, và có tưởng tượng gì không nhưng lớp An, những người đã "góp phần nuôi cây", nhất là học trò con gái đã tưởng tượng rất nhiều thứ về cái cây cạnh cổng trường. Những đứa "già trước tuổi" còn mơ mộng đến ngày mình lên đệ nhị cấp, đứng chờ "ai đó" trước cổng trường, còn có bóng cây che chở, không phải chỉ dựa cổng trường, đầu chỉ được che bằng cái nón lá mỏng manh của học trò con gái như các chị lớp lớn.
. . .
Giữa cuộc đời và những giấc mơ, nhất là giấc mơ thời mới lớn, thường có khoảng cách xa vời vợi. Chỉ hơn một năm sau ngày cả lớp An chuyên cần tưới hai "cây si" đứng sau cổng trường và được ban tặng "phần thưởng Cảnh sinh" cho cả lớp, miền Nam đổi chủ. Và cùng như một số bạn bè, An phải bỏ trường mà đi với nhìều giọt nước mắt được nuốt vào lòng. Giấc mơ được tựa "gốc cây si" cây dài bóng mát mà An và các bạn đã chăm sóc mỗi ngày suốt cả một niên học dài để chờ "cây si thiệt" lúc lên lớp mười hai tan thành mây khói...
An xa ngôi trường thân yêu, xa thành phố của tuổi thơ tĩnh lặng bình yên từ đó, mang theo nhiều ký ức êm đềm, trong đó có hình ảnh hai cây si thực vật mà mình đã góp phần "nuôi" cây lớn...
Tháng 4/75, trong những hỗn loạn bất an, linh tính cho biết mình sẽ không còn có dịp tiếp tục học ở trường, An lén Ba Mẹ đạp xe đi ngang trường, thu lại hình ảnh "hai cây si" nép sau cổng trường vôi trắng thân yêu vào ký ức; môi mím chặt, mắt long lanh ngập nước, và thấy xót xa như vừa mất một quảng đời thơ dại hồn nhiên, hạnh phúc.
. . .
Những ngày đầu đến Mỹ, học ở một trường Trung học nhỏ ở St. Louis, Missouri, câu đầu tiên An hỏi đứa bạn ngồi cạnh là cổng trường ở đâu? Nó giương mắt nhìn An như nhìn một người từ hành tinh nào rớt xuống:
- Trường ở đây không có cổng.
Hồi đó, mới qua Mỹ, sợ là tiếng Mỹ của mình làm đứa bạn ngồi cạnh hiểu lầm vì phát âm không chính xác, giờ đổi lớp cho môn học kế, An lại hỏi một đứa khác ngồi bên cạnh, con nhỏ này chắc tính cẩn thận, hỏi lại cho ... chắc ăn:
- Mày muốn nói cái cổng nào?
An kiên nhẫn lặp lại:
- Tao muốn hỏi cái cổng trường, chỗ để học sinh ra vô trường,ở đâu?
Con nhỏ Meredith có cái mặt lấm tấm tàn nhang nhưng trông vẫn rất dễ thương cũng kiên nhẫn giải thích:
- Thường thường tụi tao ra vô cổng ở bên hông Trường, gần bãi đậu xe, chỗ Ba Mẹ học trò thả con xuống để tụi nó đến lớp. Đứa nào đi bộ đến Trường thì vô bằng bất cứ chỗ nào tiện đường của nó, từ sân vận động, từ dãy lớp 8 nằm ở cuối trường, từ phòng thí nghiệm....
An ngây ngô hỏi lại:
- Không có cổng thiệt hả? Làm sao ngăn được học trò trốn học.
Meredith lại cười (chắc nó cười cho vẻ ngớ ngẩn "đồng chua nước mặn" của đứa bạn da vàng cùng lớp):
- Nếu muốn trốn học thì tụi nó đâu cần phải vô trường, nhưng đi lớ ngớ ngoài đường sẽ bị Cảnh sát chở về giao lại cho Trường hay cha mẹ. Lâu lâu cũng có mấy học sinh lớp mười hai trốn học đi coi các buổi hòa nhạc, nhưng mặt họ cũng phải trưởng thành như những người trên 18 tuổi để không bị mấy ông Cảnh sát chận lại.
Hình ảnh cái cổng trường học ở Việt Nam từ đó lại càng rõ nét trong đầu An. Ngoài việc nhớ những đứa bạn cùng lớp ngày xưa, An còn nhớ thêm cả cái cổng trường vôi trắng đã gắn liền với thời học sinh ở quê nhà.
Lên Đại học, xuôi Nam, ở Dallas, Texas, trường rộng mênh mông, đi từ phân khoa này đến phân khoa kia nhiều khi phải đi bằng xe hơi, hay đi nhờ loại xe điện nhỏ đi tuần trong trường của mấy ông cảnh sát của trường. Nhưng những ngày đầu mùa học, bài vở chưa nhiều, An lại đi vòng vòng quanh khuôn viên trường, mà nhớ đến những cái cổng trường thân yêu ở Việt Nam thời thơ dại của mình.
Khác với trường Trung học, tuy không có cổng chính với hai cổng phụ nằm hai bên, trường Đại học ở Mỹ có những "cổng chào", không có hai cánh cửa, nhưng có cả một khung lớn (bằng kim loại hoặc bằng đá) cao khoảng năm mươi feet, thường đặt ở trước Student Union, (một loại "shopping mall" nhỏ cho sinh viên và giáo sư trong trường) . Mỗi phân khoa còn có một "cổng chào" riêng mang biểu tượng của ngành học chính. (chẳng hạn Engineering school có công thức E=mc2 , Biology school có biểu tượng cấu trúc của DNA, Music school có đủ bảy nốt nhạc: do, re, mi, fa sol, la, si nằm vắt vẻo trên "cổng chào" trông rất vui mắt.) Trường Đại học rộng mênh mông có cả chục lối ra vào trường từ những bải đậu xe cò sức chứa cả ngàn chiếc, nên lại càng không có cổng trường
Sân trường Đại học thường xanh mát và rất nhiều cây. Nước Mỹ tuy còn non trẻ so với nhiều quốc gia khác trên thế giới nhưng các cây cổ thụ trong trường thì thường được trồng từ lúc Trường được thành lập. Có cây cả trăm tuổi, vẫn đứng "trơ gan cùng tuế nguyệt" chứng kiến rất nhiều thế hệ sinh viên vào, ra trường, rồi vĩnh viễn từ bỏ cuộc đời.
Lần đó, ông giáo sư dạy Triết bị bệnh, thay vì hò reo mừng rỡ vì được nghỉ học như thời còn học lớp sáu ở trong nước, sinh viên Đại học ở Mỹ, nhất là những đứa chưa chuẩn bị bài vở hôm đó dù vui nhưng cũng khôn hơn, giữ khuôn mặt bình thường tuy trong lòng rộn rả vì có được một tiếng đồng hồ tự do. Trong lúc hầu hết bạn học vào Lab để hoàn tất bài tập cho một lớp khác,hay vào Cafeteria để.... tìm một góc ngủ bù, An chạy theo con nhỏ Yvonne cùng nhóm, vẫn ngồi sau lưng An trong ba lớp học chung, về phòng của nó ở khu nội trú cạnh trường,hỏi mượn cái xe đạp của nó để chạy vòng vòng trong khuôn viên của Trường, vừa để tập thể dục, vừa để nhớ lại những ngày đạp xe đạp đi học ở Việt Nam. Yvonne rất tử tế, đã chỉ An cách điều chỉnh yên xe dạp để vừa với chiều cao của An, lại còn giữ giùm cặp sách của An.
Vừa đạp xe long nhong trong sân trường, An vừa nghĩ đến bài hát "xe đạp ơi" mà thấy bài hát đang thịnh hành ở trong nước bỗng trở thành "cung đàn lạc điệu" ở một trường Đại học rộng lớn ở Mỹ.
Trước cổng chào (chứ không phải cổng trường), nơi mọi người ra vô tấp nập nhất, không chỉ sinh viên, giáo sư hay nhân viên trường, mà có cả các du khách, các đoàn học sinh Trung học đi field trip, không có "cây si bóng mát" như ở Việt Nam, nên cũng không có cảnh "em tan trường về anh theo Ngọ về", mà có những ông Mỹ gốc Mễ Tây Cơ - đội những cái mũ somboro rộng vành để tránh bớt cái nắng khắc nghiệt của Texas, một tiểu bang miền Nam rộng lớn - bán hotdog và soda trên những cái xe nhỏ đủ màu trông rất vui mắt.
Một lần, An và một người bạn Việt Nam, dù không thích món thịt heo được điểm trang bằng mustard màu vàng và ketchup màu đỏ kẹp trong ổ bánh mì nhỏ, cũng la cà ở những cái xe bán hotdog để hồi tưởng những cái xe bán bò bía, đậu đỏ bánh lọt gần cổng trường Trung học năm xưa ở Việt Nam. Hôm đó, (may cho tụi An nhưng không may cho người bàn hàng), không đông khách lắm nên ông Mễ bán hàng to tròn không hề khó chịu khi thấy hai cô sinh viên da vàng chỉ mua hai cái hotdog mà "chiếm cứ" một trong hai cái bàn lộ thiên dưới bóng mát của cây cổ thụ ven đường gần cả tiếng đồng hồ.
Hai đứa ngồi ngó trời ngó đất, nhìn ông đi qua bà đi lại, xe cộ nối đuôi di chuyển trên đường phố mà như không thấy gì vì An thả hồn về trường Ngô Quyền trên đường Quốc lộ 1 ở Biên Hòa của mình trong khi con nhỏ bạn nhớ lại trường Gia Long trên đường Phan Thanh Giản ở Saigon của nó. Thời gian tưởng như ngừng lại khi người ta chìm vào quá khứ. Cho đến lúc, cả hai đứa cùng giật mình khi một người Mỹ homeless dừng lại hỏi xin tiền lẻ. Dù đang đi học, làm part time, tiền bạc chỉ đủ để "đắp đổi qua ngày", cả hai đứa cũng móc đủ bốn túi quần đến hai túi áo ra một nắm đủ thứ tiền cắc: quarters, dimes, nickens va cả pennies, chắc chỉ được khoảng ba, bốn dollars, chỉ vừa đủ tiền đi một ngày xe bus. Nhưng người homeless cám ơn rối rít, làm cả hai đứa cũng thấy ái ngại. Nên An hỏi ông:
- Ông có đói bụng không? Có muốn ăn hotdog không?
Người đàn ông không may, có vẻ đang đói bụng, chưa kịp trả lời, bạn An đã nhanh nhẹn chạy lại hỏi xin một cái hộp đựng đồ ăn togo từ người bán hàng. "Tư tưởng lớn" gặp nhau, cả hai đứa cùng bỏ hai phần hotdog của mình vào hộp, và gói lại cẩn thận trước khi trân trọng đặt vào tay người homeless với khuôn mặt dù hốc hác nhưng vẫn hồng hào, vóc dáng vẫn to cao, và áo quần, giày dép vẫn tươm tất.
Câu cám ơn "Thank you, ladies" của người đàn ông hình như đứt quảng, có lẽ ông ta cảm động vì cả hai đứa cùng áp dụng câu tục ngữ Việt Nam "cách cho hơn của đem cho". Con mắt màu xám của ông ta hình như long lanh ngập nước.
Không hẹn mà cả An và con nhỏ bạn cùng lên tiếng:
- Không có gì hết, ông giữ lấy để ăn khi nào đói, chúng tôi cũng sắp về nhà, sẽ ăn ở nhà. Chúc ông may mắn.
Không muốn người đàn ông bận tâm, cả hai đứa cùng đeo cặp lên vai quay vào trường, bụng đói, túi rỗng, nhưng lòng tràn ngập niềm vui, một niềm vui không một khoản tiền nào có thể mua được.
Hôm đó, cả hai đứa vô lớp học giờ kế, đầu óc vẫn còn mang theo cái cổng trường Trung học ở Việt Nam có xe bán bò bía, có "nắng Saigon anh đi mà chợt mát"; và cái "cổng chào của Trường Đại học ở Mỹ có xe bán hotdog, có khuôn mặt khắc khổ, và ánh mắt biết ơn của người homeless bản xứ.
Hai góc trời của hai quê hương không chỉ rõ nét hôm đó, kéo dài suốt hai năm còn lại ở Đại học, mà còn theo An không rời. Mỗi lần đầu óc tạm thảnh thơi, rời khỏi những bổn phận với "nợ áo cơm", với những trói buộc vật chất thường tình mỗi ngày, hình ảnh năm nào lại hiện lên, rõ nét như mới vừa xảy ra hôm qua.
Santa Clara, CA hè 2009
Nguyễn Trần Diệu Hương
(Viết cho các chs NQ: THP, PKL, NCC ở Châu Âu, TĐH ở Úc; ĐTN, NTMT, VTND ở Mỹ, NNX ở VN)
Vượt Biển Một Mình
(Tác giả, hiện cư trú và làm việc tại vùng San Jose, kể chuyện một mình vượt biển giữa thập niên 80’ và trở thành cô giáo cho những thiếu niên không thân nhân tại trại tị nạn).
Ngày 30 tháng Tư 1975, Saigon sụp đổ. Những gia đình đang ở trong các cư xá sĩ quan, cư xá công chức bị đuổi ra khỏi nhà. Cùng chung số phận, gia đình chúng tôi bị đuổi khỏi mái nhà thân yêu trong cư xá, nơi chúng tôi có một thời nhỏ dại êm ả. Mẹ đưa chúng tôi về căn nhà riêng Ba Mẹ đã xây nên bằng công sức của Ba Mẹ, nhưng nhà này cũng bị tịch thu. Sau hai lần mất nhà, chúng tôi lớn lên như câu ca dao "Còn cha gót đỏ như son, mất cha lăn lóc như lon sữa bò." Ba chúng tôi còn sống, nhưng đang bị đầy ải trong trại cải tạo ở núi rừng âm u đầy chướng khí của miền Bắc. Những ngày u ám đó in hằn vào đầu óc của chúng tôi, khiến chúng tôi trưởng thành sớm hơn tuổi của mình, vì chỉ được xã hội cho nếm mùi cay đắng.
Đầu thập niên tám mươi, trước những bế tắc không lối thoát, Mẹ thu xếp gởi anh chị em chúng tôi, từng đứa, vượt đại dương để đến một vùng đất tự do, ở đó không có khủng bố tinh thần, ở đó không có trại cải tạo giam giữ những người hoàn toàn lương thiện, và ở đó chúng tôi sẽ được học hành thành người. Cũng như rất nhiều người vợ lính khác, Mẹ đảm đang, xuôi ngược nuôi chúng tôi, nuôi Ba trong các trại tù cải tạo từ Bắc vào Nam. Tất cả những điều đó đẩy chúng tôi đến đường cùng, không còn lựa chọn nào khác hơn là phải đưa chính mạng sống của mình đánh cuộc với định mệnh, với đại dương. Còn nhớ thời đó, người dân miền Nam Việt Nam vẫn truyền miệng một câu ngạn ngữ của thời đại "Một là con nuôi mẹ, hai là mẹ nuôi con, ba là con nuôi cá." Cứ thế một hai ba Mẹ lo cho con một mình vượt biển. Khả năng vượt thoát chỉ là một phần ba. Ròng rã gần mười lăm năm dài, từ cuối năm 1975 đến đầu năm 1990, hàng trăm ngàn thuyền nhân (hay theo như cách gọi của UNHCR United Nations High Commissions for Refugees, Cao Uỷ Tỵ nạn Liên Hiệp Quốc là "Boat People") đã đến được bờ bến tự do. Cùng lúc, hàng trăm ngàn thuyền nhân khác gởi thân vào lòng đại dương.
Chưa qua khỏi tuổi thơ, nước mất, nhà tan, chúng tôi, không có thời mới lớn, tự động bước vào tuổi trưởng thành trước những khó khăn của Mẹ, vượt quá nỗi khổ của bà Tú Xương ở thế kỷ mười chín, vừa nuôi chồng trong tù cải tạo, vừa nuôi một bầy con dại còn ở Tiểu học hoặc ở những năm đầu Trung học. Từng đứa một, khi có điều kiện, Mẹ gởi chúng tôi ra đi.
Đến phiên tôi, Mẹ chỉ đưa được tôi ra bến xe liên tỉnh để đi Vũng Tàu. Cả hai mẹ con đều đội nón lá rộng vành để che những giọt nước mắt lã chã rơi không ngừng. Mẹ khóc nhiều hơn những lần đưa các anh em trai của tôi ra đi, vì tôi là con gái duy nhất trong nhà, thân gái dậm trường. Ngồi trên xe đò từ Saigon về Vũng Tàu, trong một góc xe đò, tôi úp nón lên mặt, để che đôi mắt sưng đỏ vì khóc của mình.
Gần một tuần lênh đênh trên đại dương, chỉ có trời và nước, xanh thẫm ban ngày, đen kịt ban đêm, không có cả một cánh chim, tôi nhớ Ba, nhớ Mẹ quay quắt, nhưng vẫn hài lòng với chọn lựa của mình. Hai ngày đầu, như mọi người trong lòng thuyền, tôi bị say sóng, nôn ra cả mật xanh, mật vàng. Đó là lần đầu tiên trong đời, tôi hiểu thế nào là "mửa mật". Vậy mà chỉ hai ngày sau, quen dần với cảm giác bập bềnh của con thuyền nhỏ trước lực đẩy của nước ở đại dương, tôi tỉnh táo lại hoàn toàn với đầy đủ sinh lực của "tuổi mười bảy bẻ gãy sừng trâu" mặc dù đã hai ngày không ăn uống. Khi thuyền ra hải phận quốc tế, chúng tôi được lên khoang thuyền hít thở không khí trong lành đầy vị mặn của đại dương, hình như có thoang thoảng mùi vị của tự do.
May mắn hơn những người tỵ nạn khác, chúng tôi đi bình yên, không gặp một thuyền nào khác. Trời êm biển lặng vào tháng sáu đầu mùa hè đưa chúng tôi đến thẳng đất liền của Mã Lai sau năm ngày sáu đêm lênh đênh trên biến.
Lên tới đất liền, cùng với chú lái tàu, tôi phải vận dụng vốn liếng tiếng Anh hạn chế đã tích lũy trong những tháng năm chuẩn bị vượt biên để giải thích cho nhân viên Cảnh sát Mã Lai biết chúng tôi là ai, tại sao chúng tôi đặt chân đến đây. Đó chỉ là lần đầu, một khởi đầu kéo dài mãi cho đến bây giờ, phải giải thích tương tự cho rất nhiều người khác nhau thuộc nhiều chủng tộc hiểu tại sao chúng tôi phải bỏ quê hương ra đi để sống đời lưu vong.
Những giờ phút đầu tiên trên đất liền, chúng tôi lại bị "say đất". Quen với trạng thái bồng bềnh, trôi nổi trên mặt nước; khi trở lại mặt đất bằng phẳng, mỗi lần đặt bước chân xuống, tôi có cảm giác mặt đất chao đảo như còn trên mặt sóng nhấp nhô. Sau hai ngày bận rộn với đủ thứ giấy tờ khai báo với cảnh sát địa phương Mã Lai, chúng tôi được đưa ra trại Pulau Bidong, trại tỵ nạn chính thức của Cao ủy tỵ nạn Liên Hiệp quốc đặt trên lãnh thổ Malaysia để thành một người tỵ nạn chính thức có số căn cước thuyền nhân, chờ được phỏng vấn định cư ở một nước thứ ba. Lần này, hành trình từ đất liền ra đảo Pulau Bidong vững chắc hơn trên một thuyền khá lớn của UNHCR, có tên là "Blue Dart", khoảng cách lại ngắn, nên chúng tôi không bị say sóng.
Trại tỵ nạn Pulau Bidong đã dược xây dựng tương đối đầy đủ khi chúng tôi đến đảo vào giữa thập niên 80, có đủ trường Tiểu học, Trung học cho trẻ em, trường huấn nghệ (Vocational School) cho người lớn, có thư viện, có cả Chùa, Nhà thờ trên "đồi tôn giáo", có Bệnh viện với cái tên khá ngộ nghĩnh và dễ nhớ là "Sick Bay". Chúng tôi được đón tiếp với những thùng mì ăn liền vĩ đại hãy còn bốc khói, giống hệt như những thùng mì Liên Hiệp Quốc phân phàt cho nạn nhân của thiên tai Tsunami ở South Asia cuối năm 2004.
Lần đầu tiên ăn đồ cứu trợ, sống bằng lòng nhân đạo của người khác, một thân một mình ở trại tỵ nạn của một đất nước khác, nước mắt tôi lăn dài, nghĩ đến Ba vẫn đang mỏi mòn trong ngục tù cải tạo ở núi rừng âm u đầy chướng khí của miền Bắc vẫn thiếu ăn, thiếu mặc; nghĩ đến Mẹ đang vò võ một mình ở nhà, chắc là vẫn đang cầu nguyện cho bầy con đã tứ tán mỗi đứa một quốc gia, một phương trời khác nhau, ở tuổi chưa đến hai mươi.
Tưởng là mình đã rất can đảm khi dám chấp nhận cảnh "thân gái dặm trường", không ngờ, ở trại tỵ nạn Pulau Bidong, đến khu vực Cô nhi (Minor Refugees Residential Section), dành cho các em dưới mười sáu tuổi đến trại tỵ nạn một mình, tôi thấy em nhỏ nhất chỉ mới sáu tuổi.
Ở đó, có Hanh, chỉ mới mười một tuổi, thông minh, đầy cương nghị, có Bố đang bị "học tập cải tạo" - như Ba tôi - được Mẹ gởi đi vượt biển một mình trên một thuyền bị hải tặc, mọi người đói lả gần ba ngày trước khi đến được trại tỵ nạn. Ở trại tỵ nạn, cậu bé tuy mới mười một tuổi nhưng có sự khôn ngoan và nét chửng chạc cúa một người ngoài hai mươi học hành chăm chỉ, hết học Anh Văn lại quay qua học Toán, quanh quẩn cả ngày ở trường Trung học trên đảo Pulau Bidong.
Ở đó, có Huyên, một em gái mới mười ba tuổi, cả gia đình mất tích trên biển khi thuyền bị lật. Như một phép màu, Huyên bám được một thùng plastic rỗng, trôi nổi bồng bềnh giữa đại dương gần nửa ngày, trước khi được một tàu tỵ nạn khác đi ngang vớt lên. Người ta đã thấy cô bé Việt Nam nhỏ bé mắt nhắm nghiền, gần như hôn mê bất tĩnh. thân xác mỏng manh như chiếc lá khô, hai tay vẫn còn bám chặt cái thùng nhựa rỗng bồng bềnh trên đại dương.
Ở đó, có Việt, rất thâm trầm, dù mới mười lăm tuổi, nhà cửa bị tịch thu, Ba bị giam ở khám Chí Hòa vì "tội nhà giàu", Mẹ gởi em ra đi với nhà hàng xóm để thoát khỏi tương lai đen tối của giai cấp "tư sản mại bản".
Còn biết bao các em khác nữa. Mười một tháng sau đó ở Pulau Bidong, với vốn liếng Anh ngữ từ những năm ở trường Trung học, và những sách vở của thư viện trên đảo, tôi đã có cơ hội giúp cho UNHCR và cả các phái đoàn Mỹ, Canada, Úc trong việc thông dịch mỗi khi họ đến phỏng vấn thuyền nhân.
Mãi đến bây giờ, tôi vẫn còn cảm giác xót xa khi nhớ lại những lần thông dịch cho những ngưồi đàn bà, con gái Việt Nam bị làm nhục bởi hải tặc trên đường vượt biển, em nhỏ nhất chỉ mới mười hai tuổi. Hồi đó, Cao ủy trưởng Alan ở Pulau Bidong chỉ định tôi chuyên làm công việc thông dịch đàn bà con gái trong các cuộc phỏng vấn các thuyền vượt biển bị hài tặc. Đó là một công việc rất tế nhị và đầy xót xa. Đến một độ nào đó, nỗi đau vượt quá sức chịu đựng, người ta mất cảm giác. Nhiều người nữ thuyền nhân, mặt còn đầy nỗi kinh hoàng nhưng kể lại từng chi tiết ô nhục mà chính mình phải gánh chịu với giọng đều đều, thản nhiên, lạnh lùng như nói chuyện trời mưa, trời nắng, trong khi chính tôi và cô May, Cao ủy của UNHCR đã giọt ngắn giọt dài. Mỗi lần dịch hay viết xong một hồ sơ tàu tỵ nạn bị cướp, tay áo tôi ướt đẫm vì nước mắt. Tôi vẫn tự hỏi thủ phạm trực tiếp cho nỗi đau này là hải tặc Thái Lan, thủ phạm gián tiếp thực sự là ai?
Đó là khoảng thời gian rất bận rộn với công việc thông dịch ban ngày giúp cho nhân viên Cao ủy Tỵ nạn. Ban đêm, tôi còn dạy thiện nguyện cho các em , chỉ nhỏ hơn tôi vài tuổi, ở trường Trung học trên trại Tỵ nạn. Trường chỉ dạy hai môn Anh văn và Toán. Sách học là những quyển sách đơn giản tương đương trình độ của bộ "English for Today" quyển I đến quyển III. Trước ngày ra đi, tôi chỉ mới học xong quyển IV ở Việt Nam , nhưng nhờ làm việc, tiếp xúc nhiều với các nhân viên UNHCR, và bằng long thương yêu các em chân thành như em ruột của chính mình, tôi mang hết kiến thức và hiểu biết của mình truyền lại cho các em, mặc dù tôi chưa hề được qua một trường lớp nào về Sư phạm. Chúng tôi, những người dạy thiện nguyện ở trường Trung hoc, vẫn đùa với nhau là mình đã theo một "trường phái sư phạm mới", lối dạy "mèo nhỏ tha chuột lớn".
Có lần, giải nghiã cho các em một từ mới, "dignity" - có nghĩa là phẩm giá - tôi không biết làm thế nào để giảng cho các em hiểu, đành viết lên bằng câu thí dụ "We lost everything, but never lose our dignity". Viết đến đó, tự dưng nước mắt tôi lăn dài, các em ở tuổi mười bốn, mười lăm lúc đó cũng khóc theo. Những giọt nước mắt đó vẫn còn đọng trong tâm khảm tôi cho đến bây giờ, cùng có niềm tin ở một thế hệ trẻ lưu vong có đầy đủ đầu óc và trái tim Chắc chắn, các em học sinh lúc đó, trên bước đường tha hương sau này, sẽ nhớ và hiểu nghiã chữ "dignity" hơn ai hết, và các em sẽ sống xứng đáng với lòng kỳ vọng của thân sinh các em, khi Ba Mẹ các em đã phải đứt ruột gởi con ra biển một mình.
Mỗi tuần hai lần, tàu "Blue Dart" của UNHCR cho nước ngọt, mì gói, gạo và thực phẩm tươi gồm gà và rau cải, đôi khi còn có dưa hấu hay thơm, vào cho thuyền nhân. Hầu hết chúng tôi đến trại tỵ nạn chỉ với một bộ quần áo dính trên người. Chúng tôi được phát áo quần từ một kho áo quần "second hand", tương tự như áo quần cũ bán trong Goods Will ở Mỹ. Áo quần thường rộng thùng thình, quá khổ, nhưng chúng tôi tự sửa lại đúng với kích thước của mình. Cao ủy tỵ nạn Liên Hiệp quốc đã rất là chu toàn trong việc bảo vệ và chăm lo cho những người tỵ nạn chính trị, Đến lúc được chuyển qua trại chuyển tiếp Bataan ở Philippines để được hướng dẫn về đời sống văn minh của Mỹ trước khi chính thức đến Mỹ như một người tỵ nạn, chúng tôi được huấn luyện chương trình buổi sáng, buổi chiều làm "Teacher Aid" cho các giảng viên người Phi. Ở đó, đời sống đầy đủ hơn, và lạc quan hơn vì chúng tôi biết chắc chắn ngày mình được định cư ở Mỹ. Và cũng ở đó, tôi có thì giờ tự học nhiều hơn cho chính mình, chuẩn bị một thời kỳ gian nan khác, một khởi đầu từ con số không ở quê hương thứ hai. Một vài lần được về chơi ở Manila (thủ đô của Philippines) , những chuyến du lịch đặc biệt bằng xe bus dành riêng cho các "Teacher Aid", chúng tôi vẫn ngậm ngùi thương cho sự lạc hậu của đất nước mình ngay cả khi so sánh với các nước Á châu khác như Philippines.
"Nỗi buồn nhược tiểu" đó càng tăng cao khi trên đường bay qua Mỹ, tôi được dừng chân hai ngày ở Tokyo - Nhật, thủ đô của nước Á châu giàu mạnh nhất sau khi nếm bài học xương máu với hai cột khói trắng hình nấm khổng lồ ở Hiroshima và Nagasaki cuối thế chiến thứ hai. Tokyo văn minh sáng rực ánh đèn ban đêm tương phản với Saigon lạc hậu tranh tối, tranh sáng, Nước mắt tôi lại chảy xuống cho sự thụt lùi của quê hương đã bị bỏ lại sau lưng.
Tôi đến Mỹ một tuần trước lễ Giáng sinh, cùng một thuyền nhân Việt Nam khác, hoàn thành nhiệm vụ cuối cùng được giao từ UNHCR, giúp đoàn người tỵ nạn gồm 85 người kể cả một vài người Lào và Cambodia cũng trốn chạy khỏi quê hương như chúng tôi. Giữa những hành khách Mỹ tự tin, cao to, với nhiều hành lý cồng kềnh về nước đoàn tụ với gia đình nhân dịp Giáng sinh và Tết dương lịch, rất dễ nhận ra những người tỵ nạn nhỏ bé, mảnh mai mắt mở to vui mừng lẫn ngơ ngác, chỉ có hai bàn tay trắng với những túi xách của UNHCR và IOM (International Organization for Migration), chỉ có giấy tờ nhập cư vào Mỹ và giấy tờ tùy thân .
Được chuẩn bị đầy đủ với gần 6 tháng học về "American Culture Orientation" ở trại chuyển tiếp Bataan, Philippines, với trình độ Anh văn tương đối sau một năm tiếp xúc và làm thông dịch viên cho nhân viên Cao ủy Tỵ nạn LHQ, tôi không đến nỗi bị lâm vào cảnh "mán về thành", nhưng thật sự đời sống ở Mỹ khác xa với đời sống ở quê nhà như mặt trời với mặt trăng, như ngày với đêm.
Hình ảnh của Ba với mái tóc bạc trắng ở tuổi năm mươi trong lao tù cải tạo, hình ảnh Mẹ với đôi mắt buồn trong những ngày chuẩn bị gởi chúng tôi ra đi là nguồn nghị lực không bao giờ cạn, tiếp sức cho chúng tôi trong thời gian chân ướt chân ráo ở quê hương thứ hai.
Từ nhiều trại tỵ nạn ở nhiều nước khác nhau: Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Philippines, anh chị em chúng tôi đến Mỹ trong nhiều thời gian khác nhau, được trùng phùng, như trăm sông đổ về biển, và mang sức sống của tuổi hai mươi lao vào đất nước của tự do và cơ hội. Một người bạn cũ của Ba, qua Mỹ từ năm 1975, đang làm ở tổ chức thiện nguyện USCC, giúp tôi có được trợ cấp một lần là 650 dollars dành cho người tỵ nạn mới đến , bác viết cho tôi một reference letter và từ đó " I'm on my own way". Bác cũng giới thiệu cho tôi đến tìm việc làm ở một vài nơi. Trời thương, "thánh nhân đãi kẻ khù khờ", tôi được nhận vào làm full time ở một công ty lớn chỉ hai tuần sau ngày đến Mỹ. Lúc đó là đầu tháng giêng, giữa mùa Đông ở Mỹ, trời lạnh buốt, buổi sáng tôi thức dậy từ sáu giờ ba mươi, trời còn tối, ra đứng chỗ xe bus ở đầu đường, trời lạnh cóng, dưới 40 độ Fahrenheit, tôi phải mặc ba bốn lớp áo, nhưng áo quần cũ chị em chúng tôi đã mua từ Goods Will để vừa với túi tiền của mấy chị em lưu lạc quê người, chỉ có hai bàn tay trắng, với lòng tin của Ba Mẹ đặt ở mỗi chúng tôi. Một tuần sau, chịu không nổi cái lạnh gần đông đá , từ 32 đến 39 độ Fahrenheit của mùa đông thứ nhất ở Mỹ, tôi dùng cái paycheck đầu tiên của mình thuê người dạy lái xe và dốc hết tiền trợ cấp một lần cho người mới đến mua một cái Toyota Celica đã mười bốn tuổi, để đi học và đi làm. Đời sống lúc đó, còn nhỏ, là một hình tam giác với ba đỉnh là nhà, trường học và sở làm không hề có giải trí, không có cả thời gian để buồn và nhớ nhà. Đến Mỹ muộn màng, sau gần mười năm miền Nam sụp đổ, biết thân phận mình là "trâu chậm", chúng tôi lao đầu vào học, không dám để phí thêm một giờ phút nào. Mùa hè, học phí cao hơn, tôi chỉ ghi danh theo học một lớp, và làm part time cho một trạm bán xăng ở gần nhà Nghĩa là lúc đó, tôi đi làm full time, đi học full time quanh năm. Nhiều lúc quá mệt mỏi, tôi lại tự nâng đỡ tinh thần mình bằng câu nói cửa miệng của người Mỹ "No pain, no gain", và nhớ đến kỳ vọng của Ba Mẹ đã đặt ra cho chúng tôi. Buồn nhất là những lần bất chợt nghe được những câu hát rất đúng với tâm trạng của mình: "Ai trở về xứ Việt, nhắn giùm tôi người ấy ở trong tù .....", nghĩ đến Ba, nước mắt tôi vẫn lăn dài, và tự bảo lòng mình phải cố gắng học giỏi hơn để Ba Mẹ vui hơn, đủ nghị lực sống trong đời sống bị khủng bố tinh thần thường xuyên ở quê nhà.
Có lần được phát biểu cảm tưởng với thời gian ba phút trong một lần nhận học bổng, tưởng là sẽ cảm ơn đủ tất cả mọi người và hứa với "scholarship foundation" sẽ cố gắng nhiều hơn, nhưng tôi chỉ nói được gần hai phút: - Xin cảm ơn tất cả thầy cô đã có công dạy dỗ tôi, xin cảm ơn Hội đồng trao tặng học bổng cho tôi. Xin tri ân đất nước Hoa Kỳ đã cưu mang và cung cấp một đời sống tự do, no đủ cho tất cả những người tỵ nan, lưu vong. Vinh dự hôm nay xin được dành riêng cho tất cả những người đã nằm xuống cho chúng tôi có được ngày hôm nay, và xin đặc biệt danh riêng cho Ba tôi, người vẫn còn đang bị đày ải trong lao tù Cộng sản vì đã ở trong một quân đội bảo vệ tự do, xin được dành riêng cho Mẹ tôi, người đã rất chu toàn trong việc nuôi dậy con cái một mình.
Một phút còn lại, tôi không nói được vì cử tọa trước mặt đã mờ đi sau màn nước mắt, mùi vị đắng cay sau năm 75 ở quê nhà vẫn kéo về với đầy nỗi xót xa, ngay cả trong giờ phút ngọt ngào nhất. Một thầy giáo người Mỹ gốc Ba Lan đã tỵ nạn Cộng sản từ cuối thập niên 60, dạy tôi từ năm đầu Đại học, hiểu rất rõ tâm trạng của một người tỵ nạn, đã lên diễn đàn giúp tôi hoàn tất lời phát biểu. Lần đó, tôi được đặc cách đề cử trực tiếp cho học bổng niên khoá kế tiếp, mà không phải qua những thủ tục bình thường. Món tiền tuy không lớn, cũng đủ để trang trải chi phí sách vở, học phí, ăn ở cho một năm học, là một yểm trợ vật chất lớn lao cho tôi trong ba năm đầu chân ướt chân ráo ở quê người. Có những điều hằn sâu trong ký ức, lúc nào cũng tưởng như mới vừa xẩy ra, như chuyện say sóng đến độ "mửa mật" của những ngày lênh đênh trên đại dương vẫn ám ảnh tôi không nguôi. Cho nên, có lần được chọn là "Employee of the year" được tặng vé cho một chuyến đi cruise trên biển một tuần cho hai người, nhớ lại cảm giác đắng nghét ở miệng, cảm giác mất thăng bằng của những ngày mới đặt chân lên đất liền, tôi đã nhường lại phần thưởng đó cho "the runner up" trước con mắt ngạc nhiên của mọi người làm cùng chỗ. Đó không phải là điều duy nhất người bản xứ không hiểu những người tỵ nạn, những người Mỹ gốc Việt lưu vong. Họ cũng không hiểu tại sao rất nhiều người Việt Nam nhỏ bé ốm yếu vẫn đội mưa đội gió hàng giờ giương cao những tấm biểu ngữ "Human Right for VietNam", "Freedom for VietNam" ở một góc đường nào đó trong đời sống lạnh lùng, đầy tất bật của đất nước Hoa kỳ.
Sau khi đã ổn định, - đã có một "career" đàng hoàng thay cho cái "job" để kiếm sống - có thời tôi đi dạy thiện nguyện cho một trường Việt ngữ ở điạ phương, học sinh là các em teenagers. Dù cùng tuổi nhưng học trò của tôi bây giờ vô tư, ngây thơ, khác xa các em trong trại tỵ nạn chững chạc, trưởng thành trước tuổi. Ở trường Việt ngữ, ngoài bài giảng từ sách của trường, thì giờ còn dư, chúng tôi giảng trích đoạn từ tác phẩm "Mùa hè đỏ lửa" của nhà văn Phan Nhật Nam, từ bài thơ bất khuất "Nếu ai hỏi" của nhà thơ Nguyễn Chí Thiện để các em hiểu rõ hơn giá trị của tự do, và biết yêu thương cha mẹ hơn, biết ơn cha mẹ các em đã hy sinh rất nhiều để các em có được ngày hôm nay.
Đời sống ở Mỹ vốn tất bật, nhưng một phút bình lặng nào đó của tâm hồn, dù đang bị kẹt xe trên một xa lộ xe cộ tất tả ngược xuôi hay đang ở trong một cuộc họp ở sở, đầu óc tôi vẫn lang thang về với quê nhà, và buồn thay, bao giờ cũng vậy, mùi vị đắng nghét như đang bị "mửa mật", mùi vị chua cay của một thời vẫn hiện về, rõ ràng, mồn một như chuyện hôm qua.
Và có một lần "chuyện hôm qua" càng rõ nét hơn. Đến thăm Massachusetts Institute of Technology (MIT) nổi tiếng về chuyên ngành Toán và Kỹ thuật, đang ngồi chờ người bạn ở cafeteria của trường, bỗng một sinh viên người Á châu đi qua, đi lại trước mặt tôi nhiều lần. Sau cùng, anh ta dừng lại, lịch sự hỏi bằng tiếng Mỹ: - Xin lỗi, chị có phải là cô Thuyên ở trường Trung học Pulau Bidong năm 1988 không?
Tôi trả lời bằng tiếng Việt:
- Đúng rồi, em có thể nhắc cho tôi nhớ em là ai không?
Người thanh niên vui mừng, rồi bằng một thứ tiếng Việt rõ ràng và lễ độ, anh ta trả lời:
- Em là Hanh đây chị, em học cùng lớp với Huyên và Việt ở Pulau Bidong. Chị nhớ em không?
Hanh vẫn nhận ra tôi sau mười lăm năm không gặp, nhưng tôi thì không thể nhìn ra được anh thanh niên cao lớn chững chạc trước mặt mình là cậu bé đen nhẻm, chững chạc, chăm học ở trại tỵ nạn năm xưa, Hanh lúc đó đang ở năm cuối của chương trình Tiến sĩ Toán, như ước mong ngày nào em đã trình bày trong một giờ thực tập nói tiếng Anh ở lớp học nhỏ xíu, mái lợp tôn thô sơ giữa đảo Pulau Bidong. Hanh kể cho tôi nghe về chuyện em đến Mỹ một mình ở tuổi mười hai, cùng với một nhóm ngườI Việt Nam tỵ nạn đặt chân đến Mỹ ở phi trường San Francisco, Hanh đổi máy bay về Massachusetts. Đi một mình, dưới mười lăm tuổi, nên Hanh được một cô Stewardess đích thân dắt lên máy bay trước.
Ra đón cậu bé tỵ nạn Việt Nam ở phi trường Logan Boston - là đại diện của một tổ chức thiện nguyện và cha mẹ nuôi của Hanh. Đó là một gia đình ngươi Mỹ gốc Tiệp Khắc, qua Mỹ tỵ nạn từ thập niên 60s. Dù chưa bao giờ có ý định xin con nuôi, nhưng thấy Hanh là một cậu bé mới mười một tuổi vượt biển một mình, không có thân nhân, nên họ muốn đưa Hanh về nuôi. Cả hai ông bà đều dạy Trung học. Ông dạy Toán, bà dạy Home Economics (tương tự như môn Nữ công gia chánh ở Việt Nam). Người con duy nhất đi học xa, ông bà vẫn làm việc thiện nguyện ở một Nhà thờ Tin lành vào cuối tuần. Khi thấy tên Hanh, một em nhỏ tỵ nạn Việt Nam mới mười một tuổi, không có thân nhân ở Mỹ, được nhà thờ tìm người bảo trợ, họ xin nhận Hanh làm con nuôi. Vẻ chín chắn cùng sự khôn ngoan trước tuổi của Hanh đã chinh phục được lòng thương yêu của bố mẹ nuôi người Mỹ từ lúc đầu. Vì cả hai ông bà đều là nhà giáo, Hanh lại có căn bản về cả tiếng Anh lẫn học lực, lại chăm chỉ học hành nền em được vào thẳng lớp bảy như các học sinh bản xứ mà không gặp trở ngại nào.
Lên Trung học, Hanh tốt nghiệp thủ khoa Trung học. Với sự hướng dẫn quý báu của cha mẹ nuôi, với thành tích học tập xuất sắc trong bốn năm Trung học, cậu bé Hanh tỵ nạn năm xưa nhận được học bỗng toàn phần của MIT, trong niềm hãnh diện của cha mẹ nuôi ở Mỹ lẫn cha mẹ ruột ở Việt Nam. Giữa thập niên 90s của thế kỷ hai mươi, ba mẹ sinh thành cùng hai em của Hanh được qua Mỹ theo chương trình nhân đạo HO. Vậy là Hanh có đến hai ông bố, hai bà mẹ, và hai gia đình cùng ở tiểu bang Massachusetts, trong hai thành phố kế cận nhau. Không muốn làm mất lòng gia đình nào, và để được tập trung học tập, Hanh vào nội trú trong MIT. Mổi thứ bảy về với cha mẹ ruột, ăn món ăn Việt Nam do mẹ nấu, nghe ba kể về những đọa đày ông phải gánh chịu trong các trại "cải tạo". Và mỗi chủ nhật, về lại căn phòng thân thuộc mà cha mẹ nuôi đã dành cho Hanh từ ngày cậu bé Việt Nam, da còn đậm màu nắng gió của trại tỵ nạn, chân ướt, chân ráo đến Mỹ. Căn phòng dù không còn được dùng thường xuyên, nhưng trong closet vẫn còn treo hai bộ áo quần kỷ niệm của Hanh, một bộ Hanh mặc khi mới đến Mỹ được người bảo trợ ra đón, và bộ kia là bộ áo quần đầu tiên Hanh được bố mẹ nuôi mua cho. Ở một góc bàn học, vẫn còn cái lọ thủy tinh có cắm hai lá cờ nhỏ, một sọc trắng đỏ với năm mươi ngôi sao của Mỹ, một màu vàng với ba sọc đỏ của Việt Nam. Trên tường vẫn còn hình Hanh năm mười tám tuổi, chững chạc trong áo mũ và dây choàng thủ khoa (valedictorian) ngày tốt nghiệp Trung học.
Một chi tiết rất cảm động trong câu chuyện của cậu bé tỵ nạn ở Pulau Bidong năm xưa là hồi mới đến Mỹ, mỗi lần được cho kẹo chocolate, Hanh chỉ ăn một phần nhỏ và để dành hầu hết kẹo để gởi về Việt Nam cho hai em và cho các bạn. Điều "bí mật" đó bị phát hiện khi hai ông bà Mỹ thấy cậu con nuôi ăn uống rất chừng mực từ tốn nhưng luôn luôn xin được mua thêm chocolate. Kẹo "để dành" thường được Hanh gói cẩn thận trong những túi nylon dán kín để trong một góc tủ áo quần. Halloween đầu tiên ở Mỹ, đi học về, làm xong bài vở, trời vừa sụp tối, Hanh xin phép ba mẹ nuôi cho đi xin kẹo. Cậu bé miệt mài đi bộ một mình trong thời tiết se lạnh đầu mùa thu ở miền Đông Bắc trên bốn năm con đường, gõ cửa từng nhà xin kẹo. Kêt quả rất khả quan, sáng hôm sau Hanh gởi được một thủng kẹo mười hai lbs (khoảng 5kg) về Việt Nam mà cước phí còn cao hơn cả tiền mua kẹo. Có nguồn gốc là người Tiệp Khắc, một thời đã phải sống dưới chế độ Cộng sản, bố mẹ nuôi của Hanh hiểu ngay mọi chuyện. Và ông bà càng quý Hanh, cậu bé Việt Nam tuổi còn nhỏ nhưng tấm lòng đã rất lớn.
Đến phiên tôi, tôi cũng kể cho Hanh nghe giòng đời đã đẩy đưa tôi từ trại tỵ nạn năm xưa đến California như thế nảo. Có nằm mơ, tôi cũng không tưởng tượng nổi mình gặp lại được cậu học trò đen nhẻm vì vị mặn của gió biển ở Mã Lai, có đôi mắt sáng nhưng lúc nào cũng buồn ở trường Trung học trên đảo Bidong ngày nào. Ước gì tôi cũng gặp được Huyên và Việt, cũng như đã hội ngộ rất bất ngờ với Hanh ở một góc trường MIT ở miền Đông Bắc nước Mỹ. Nhưng dù chưa hay không có dịp tái ngộ với Huyên và Việt, tôi vẫn tin hai em đã rất thành công như Hanh, chứng minh mình có thể làm được nhiều điều, chẳng hạn như chuyện học hành, mà có một thời ở trong nước , sau tháng 4/75, nhà cầm quyền không cho phép mình làm.
Tất cả chúng tôi dều giống nhau ở chỗ phải xa nhà, bỏ đất nước ra đi một mình, dù lúc nào trong tâm tưởng của chúng tôi cũng có một vị trí trang trọng cho quê hương chôn nhau cắt rốn đã phải bỏ lại sau lưng. Chúng tôi đã phải mang cả sinh mạng của mình ra đánh cuộc với định mệnh, với đại dương; một cái giá không một khoản tiền nào, dù lớn đến đâu có thể mua được. Những được mất với cuộc đời hãy còn ở trước mặt, nhưng chắc chắn chúng tôi sẽ cố gắng không ngừng để xứng đáng với cái giá mình phải đánh đổi.
Chia tay Hanh hôm đó, tôi mang theo câu nói của Hanh với khuôn mặt rất nghiêm trang, già trước tuổi, và vẫn với đôi mắt buồn xa vắng như lần đầu tiên tôi gặp em ở trường Trung học trên đảo tỵ nạn:
- Điều em vui nhất là đã đền đáp được phần nào ơn nghĩa sinh thành của cha mẹ ruột và ân tình cưu mang của bố mẹ nuôi. Em vẫn cố gắng hết mình, cố gắng đến hết cuộc đời để luôn làm cho cả Ba Mẹ lẫn Mommy, Daddy của em vui Điều duy nhất không chắc em có làm được hay không, là "gánh sơn hà" mà đôi lúc Ba em và các bác, các chú cùng thời vẫn nửa đùa nửa thật là đã trao lại cho thế hệ của mình.
Hanh dừng một chút rồi hỏi một câu mà đến bây giờ tôi vẫn chưa biết cách trả lời:
- Gánh sơn hà nặng lắm một mình em hay cả hai chị em mình không thể nào gánh nổi! Chị ơi, làm thế nào để cả thế hệ của mình đủ sức gánh nổi sơn hà hả chị?
Câu hỏi đó cứ quanh quẩn trong tôi và chắc là phải còn lâu, lâu lắm, tôi mới biết được câu trả lời chính xác Nhưng tôi tin là chỉ cần một phần mười của một thế hệ Việt Nam (cả ở hải ngọai lẫn trong nước) biết đoàn kết, có nhiệt tâm gánh vác non sông với chí khí của Trần Quốc Toản, với lòng yêu nước của Nguyễn Thái Học và với đầu óc của Lê Quý Đôn thì gánh sơn hà sẽ nhẹ nhàng như cái cặp đi học rất thân thuộc của một thời đèn sách.
Nguyễn Trần Diệu Hương
(Viết cho Lan Hương, Tiến, Tuấn và những thuyền nhân "đi biển" một mình)
Em Diệu Hương quí mến,
Cô được một người bạn chuyển cho bài này, thấy hay quá, rất thực và cảm động. Cô đọc phần mở đầu về tác giả, đã thấy 90% đó là em. Chỉ có điều là bây giờ bài viết mới lại luân lưu tới cô (có vài người gửi cùng lúc này). Có lẽ vì cô ở xa cộng đồng Việt, không mua báo và đọc báo Việt nhiềunên không được biết. Hôm đọc xong đã định viết cho em để hỏi nhưng không tìm ra email của em (cô biết là có ở đâu đó) nên mới viết cho Dung và được lời đoan chắc.
Em Hương ơi, bài viết chân thực và đầy xúc cảm vì đó là chuyện thật của em. Nhưng cũng phải có một văn tài quí hiếm mới diễn tả được như vậy. Em vẫn viết cho báo nào, và chắc cũng còn nhiều bài khác (như lời giới thiệu trênđầu bài), có thể tìm đọc ở đâu???
Hãy nhận lời cảm ơn của cô và một tấm lòng quí mến cùng kiêu hãnh đã biết đến người viết là một cựu HS NQ. Cô có gửi cho con gái nuôi Quỳnh Thư cùng thưởng thức và chắc QT sẽ chuyển cho thầy Quýnh nếu thầy chưa được đọc.
Thương chúc em vui mạnh luôn và mong được em chia sẻ tâm tình.
Cô Thu
Đoạn Cuối Hồi Ký Của Ba
- Bài này được viết để đau xót đưa Ba về với hạc nội mây ngàn, để báo tin cho bạn bè của Ba - những người vẫn còn hiện diện trên đời - bạn học ở Khải Định, Quốc Học, ở quân trường Thủ Đức, ở camp Fort Benning, Georgia; bạn trong quân ngũ; bạn tù ở Biên Hòa, Vĩnh Phú, Hà Nam Ninh, Gia Trung: Ba đã vĩnh viễn ra đi.
- Như một lời cảm ơn muộn màng (của cả gia đình, thay cho Ba) gởi đến Bác DK Lai ở Texas, chú MV Tấn ở Indiana.
Một trong hai tai nạn lớn nhất đời người vừa xảy ra với chúng tôi khi Ba vĩnh viễn bỏ cuộc đời, bỏ Mẹ và chúng tôi, Những năm gần đây, nhiều người bạn cùng thời với Ba, những người sinh vào cuối thập niên 20s đến cuối thập niên 30s của thế kỷ hai mươi lần lượt bước sang thế giới vĩnh hằng, chúng tôi đã chuẩn bị tinh thần cho ngày Ba về với ông bà, nhưng lòng vẫn đau như cắt.
Dạo sau này, cả anh Sơn, một người bạn lớp trên ở trường Ngô Quyền xưa, và chúng tôi đều lo sợ khi chuông điện thoại reo lên vào giữa đêm khuya, chỉ sợ đó là tin chẳng lành về các đấng sinh thành. Cả hai ông Bố đều đã tốt nghiệp "đại học máu" (theo từ ngữ của nhà văn Hà Thúc Sinh) với một thời gian cả một thập niên dài đăng đẳng. Những năm tháng cùng khổ đó đã tàn phá cơ thể của những cựu SQ QLVNCH vốn có lối sống kỷ luật, điều độ, không uống rượu, không hút thuốc như thân phụ của chúng tôi. Trung tuần tháng 11 năm 2009, Ba anh Sơn qua đời ở Seattle, WA, được đồng đội năm xưa đưa tiễn ông lần cuối trong bầu trời xám ngắt của miền Tây Bắc nước Mỹ. Tôi gọi diện thoại chia buồn với người bạn lớn thời Trung học trước đại tang của anh. Và tưởng tượng trong những giọt nước mưa không ngừng lúc cuối thu đầu đông ở Seattle có lẫn những giọt nước mắt của anh Sơn, Mẹ và các em của anh. Tang lễ xong, anh gọi điện thoại cảm ơn, giọng nói vẫn còn âm ỉ nỗi đau mất cha. Mới biết, dù người ta có lớn, có già đến đâu đi nữa, mất cha vẫn là mất một nửa bầu trời xanh hạnh phúc.
Không may, chỉ nửa năm sau, đến lượt chúng tôi phải chịu một trong hai đại tang lớn nhất đời người. Không phải là một cú điện thoại mang đến tin dữ giữa đêm khuya, mà là vào buổi chiều, lúc hoàng hôn ở ven biển miền Tây nước Mỹ, buổi sáng ngày Lễ Phật Đản 2554 ở Việt Nam, báo tin Ba vĩnh viễn ra đi chỉ sau ba ngày bệnh tim trở nặng. Dù đã bắt đầu tìm hiểu kỹ về tôn giáo, về lẽ vô thường từ khi Ba Mẹ bước vào tuổi bảy mươi, chúng tôi cũng đau đớn như một phần cơ thể của mình vừa bị mất. Mấy anh chị em mua vé máy bay, xin visa khẩn nhập cảnh Việt Nam, về liền ngay ngày hôm sau. Các hãng máy bay ở Châu Á không dành ưu đãi (như một lời phân ưu) cho những người phải lấy chuyến bay gấp để về chịu tang như các hãng máy bay ở Mỹ. Nhưng vào giờ phút đó, tiền bạc không còn đáng kể nữa
Hai chuyến máy bay quốc tế vượt đại dương, và một chuyến bay quốc nội từ phi trường Tân Sơn Nhất đưa chúng tôi về đến quê nhà trong vòng hai mươi bốn tiếng. Cảnh vật trước mắt nhạt nhòa, bị che khuất bởi nước mắt và nỗi đau của người mới mồ côi cha.
Đây không phải là lần đầu chúng tôi có cảm giác này. Năm 1976, các cựu sĩ quan QLVNCH bị đưa ra mạn ngược ở miền Bắc, nhiều người chịu không nổi sơn lam chướng khí và điều kiện khắc nghiệt của "đáy địa ngục" (theo một tác phẩm cùng tên của họa sĩ kiêm nhà văn quá cố, cựu Đại tá Tạ Tỵ) đã về thế giới bên kia ở tuổi bốn mươi, bỏ lại vợ dại con thơ ở miền Nam vừa "được giải phóng". Hồi đó có một người cùng cấp bậc, ở cùng trại cải tạo với Ba, có một cái tên giống như Ba nhưng không có dấu huyền, đau nặng rồi từ trần, không có một người thân yêu nào bên cạnh, chỉ có tấm lòng của đồng đội cùng khổ trong lao tù cải tạo. Thế là bằng một cách nào đó, tin dữ lan xa về đến miền Nam, đến cư xá cũ ở Biên Hòa nơi chúng tôi sống trước tháng 4 năm 75. Rồi tin chuyển về đến với Mẹ và chúng tôi là Ba đã mất trong trại cải tạo. Còn nhớ, dù còn nhỏ, tôi đạp cái xe mini màu trắng ra ngồi khóc một mình giữa trưa đứng bóng ở bãi biển Nha Trang. Lúc đó bãi biển còn rất vắng và vẫn còn vẽ đẹp nguyên thủy của thiên nhiên. Màu xanh của biển trời, màu trắng của bãi cát nhạt nhòa trước mắt tôi. (Qua màn nước mắt, tôi thấy lại hình ảnh Ba lúc đi trình diện "học tập cải tạo" với thời gian một tháng theo thông báo, khoác cái "sac marine" màu olive ngồi sau xe Honda màu đỏ để anh Luân chở giùm Ba ra ga xe lửa Biên Hòa đi trình diện ở trường Don Bosco).
Chiều cùng ngày, trong nỗi bàng hoàng và đau xót của Mẹ và chúng tôi, lại có tin truyền miệng đưa về người mất trong trại cải tạo là một đồng đội có tên gần giống với tên Ba, không phải là Ba. Nhưng phải đợi đến cả ba tháng sau, nhận được thư Ba gởi về từ lao tù cải tạo, có nội dung giống hệt những thư trước, như thư của tất cả những người tù chính trị khác, nhìn đúng chữ của Ba với ngày tháng trong thư sau cái ngày nhận lầm tin dữ đó, Mẹ và chúng tôi mới yên tâm.
Ba mươi bốn năm sau, nhận dược tin nát lòng Ba từ trần qua đường dây điện thoại, chúng tôi biết "lịch sử không lập lại" như năm xưa, nhưng vẫn ước gì đó chỉ là một cơn mơ dài.
Chúng tôi gác lại mọi việc ở quê hương thứ hai, dắt díu nhau về quê nhà chịu tang Ba, một trong hai đại tang lớn nhất đời người. Nỗi đau mất cha òa vỡ, lớn đến nỗi chúng tôi mất cảm giác, không báo tin cho ai, ngoài các cô chú, em ruột của Ba đang ở rải rác nhiều nơi trên thế giới; và người bạn thân nhất của Ba ở Dallas, Texas. Qua đường dây điện thoại, chúng tôi cảm nhận được nỗi ngỡ ngàng và tấm lòng của Bác đối với Ba. Theo niềm tin của Phật giáo, dù chúng tôi không nhận phúng điếu, Bác gởi tiền nhờ chúng tôi phóng sinh một trăm con chim vào lễ hạ huyệt của Ba để góp phần cầu nguyện cho Ba được siêu thăng tịnh độ.
Không những chỉ làm đúng theo yêu cầu của Bác, -để cả Bác lẫn Ba đều hài lòng -, ngày đưa Ba về lòng đất, một trong các em tôi còn mang đôi dép của Bác (đôi dép Bác đã để lại ở thềm nhà trong dịp Tết Canh Dần về thăm Việt Nam lần đầu sau 35 năm lưu vong, ghé Nha Trang ở chơi với Ba một tuần). Coi như Bác cũng về Nha Trang với chúng tôi, đưa Ba đi lần cuối trên con đường Duy Tân chạy dọc theo bờ biển về nơi an nghĩ cuối cùng.
Trong nỗi đau xót mất cha, trong lời kinh cầu nguyện của các Tăng Ni trước linh cửu của Ba, chúng tôi được nghe những người khoác áo vàng của một nhà tu nhắc lại những kỷ niệm của họ với Ba trong thời gian Ba dạy họ học Anh văn. Cả hai bên đều kính cẩn gọi nhau là "Thầy ". Ba gọi họ là "Thầy" vì chiếc áo vàng của một người xuất gia. Họ gọi Ba là "Thầy" vì Ba đã giúp họ trau dồi Anh văn, một ngoại ngữ rất thịnh hành ở Việt Nam từ khi chính quyền trong nước "mở cửa đổi mới".
Tang lễ xong, chỉ đủ thời gian an ủi Mẹ, ở nhà với Mẹ vài ngày để Mẹ quen dần với nỗi trống vắng to lớn, chúng tôi trở lại Mỹ để phải chạy theo "nợ áo cơm" và những ràng buộc thường tình của đời sống.
Khác với những lần trước về thăm nhà, lần này hành trang của chúng tôi gọn nhẹ, không có gì ngoài những bộ quần áo màu trắng và đen chúng tôi sẽ phải mặc trong suốt thời gian cư tang. Về lại Mỹ, hành lý chỉ có thêm vài món đồ Ba đã chắt chiu gìn giữ sau bao nhiêu năm vật đổi sao dời, những kỷ vật có ẩn chứa một đoạn đời thơ dại hạnh phúc của chúng tôi ở Biên Hòa vào đầu thập niên 70s.
Ba chưa bao giờ kể lại cho chúng tôi một điều gì về những ngày cùng khổ trong các trại cải tạo từ Nam ra Bắc rồi vào miền Trung, nhưng đây đó qua những bài viết về hồi ức những ngày cơ cực của các cựu sĩ quan QLVNCH đang sống những ngày cuối đời ở đất khách quê người, chúng tôi được biết về tấm lòng của Ba với đồng đội, bạn bè ngay cả trong gian nan khốn khó. Chẳng hạn như Ba đã chia cho những người bạn tù từng viên trụ sinh hết sức quý hiếm trong những giờ phút bệnh hoạn, đói khát trong lao tù cải tao.
Phải chăng cũng như Bác, hạnh từ bi đã có trong Ba tự thủa nào nên Ba không hề mở miệng oán trách những người đã tước đoạt nhà cửa, gây ra bao khốn khó một thời cho gia đình.
Khi chúng tôi qua lại Mỹ, người bạn thân nhất của Ba đã kể lại cho chúng tôi cơ duyên Bác với Ba có một "tình bạn Lưu Bình - Dương Lễ". Những chuyện mà chúng tôi chưa bao giờ được nghe. Nhân sắp đến ngày Father’s Day và ngày Quân lực VNCH (19 tháng 6), xin ghi lại như một cách để tưởng nhớ đến Ba, một người lính thanh liêm, gương mẫu của QLVNCH. - như người Mỹ vẫn "celebrate one’s life" khi một người vừa từ trần-.
Bác đã kể cho chúng tôi nghe về tính khiêm cung và tinh thần chí công vô tư của Ba trong thời gian làm ở Nha Tổng Thanh tra QLVNCH thuộc Bộ Tổng Tham Mưu. Thời đó, thập niên 70s, có thể vì chúng tôi còn quá nhỏ, có thể vì Ba không bao giờ mang chuyện công ra kể lể ở nhà, chúng tôi không biết gì về công việc của Ba. Hơn ba thập niên trôi qua, đúng với định luật "tre tàn măng mọc", rất nhiều người trong hàng ngũ QLVNCH đã về cõi vĩnh hằng, ký ức của người còn sống cũng đã nhạt nhòa theo năm tháng. Nhưng ở tuổi tám mươi, Bác vẫn còn tinh tường và khỏe mạnh để kể lại cho chúng tôi nghe về thân phụ của chúng tôi, về người bạn thân nhất của Bác.
Dạo đó, một trong những nhiệm vụ của Ba là dạy về các điều luật trong quân pháp. Khi Bác đổi về Nha Tổng Thanh Tra, mặc dù cùng cấp bậc, trạc tuổi Ba, tuy không có nhiều kinh nghiệm thanh tra trên khắp bốn vùng chiến thuật, nhưng Bác có bằng Luật sư. Thời gian đầu, Bác mới về, Ba luôn truy vấn Bác về các điều luật, về quân pháp, Bác trả lời rành mạch, thuộc nằm lòng các bộ luật quân sự lẫn dân sự. Thấy Bác tường tận luật lệ, lại có bằng chuyên môn, Ba xin với "xếp" để Bác thay thế Ba trong các lớp dạy về quân pháp. "Xếp" hỏi:
- Anh có chắc là anh kia có kinh nghiệm điều tra thực tế và hướng dẫn quân pháp rõ ràng không?
Ba quả quyết Bác thừa sức đứng lớp thay Ba. Thế là từ đó, Bác thay Ba dạy về quân pháp ở Nha Tổng Thanh Tra, Ba chỉ phụ trách lớp học khi nào Bác bận công tác khác Không những thế, lúc nào có thể thu xếp được, Ba vẫn đến lớp của Bác, vừa dự giờ, vừa học hỏi thêm từ kiến thức của một người đã hành nghề Luật sư nhiều năm. Từ đó, tình bạn khởi đầu giữa Ba và Bác vì cả hai cùng có hạnh khiêm cung, và lòng từ bi. Có lúc phải điều tra những hồ sơ mà người bị tố cáo có cấp bậc cao hơn Bác và Ba nhiều, nhưng bao giờ cả hai cũng làm việc với tinh thần chí công vô tư, giữ lại được hình ảnh tốt đẹp của những SQ QLVNCH trong lòng người dân miền Nam.
Cơn lốc tháng 4/1975 cuốn đi tất cả mọi thứ. Bác di tản kịp thời, với kiến thức về Luật đã được học ở Mỹ từ năm 1958, Bác lấy lại được bằng hành nghề và làm công chức liên bang ở Pennsylvania đến ngày về hưu. Nghiệp nặng hơn, Ba ở lại, lận đận gian nan cả chục năm trong lao tù cải tạo từ Nam ra Bắc Trong gần hai thập niên, Bác không ngừng tìm kiếm Ba cả ở Mỹ lẫn Việt Nam nhưng không đạt được kết quả nào vì "chim bay biển Bắc, anh tìm biển Nam"
Cuối cùng tấm lòng của Bác với Ba động đến lòng Trời, một người bạn khác của Bác giúp Bác tìm ra Ba sau ngót hai mươi năm biệt tin với rất nhiều vật đổi sao dời. Bác và gia đình muốn yểm trợ vật chất cho Ba Mẹ chúng tôi nhưng vào thời điểm đó chúng tôi đã đủ khả năng chu cấp cho Ba Mẹ. Nên từ đó, Bác vẫn đều đều gởi tiền về hàng năm để Ba giúp Bác chia xẻ với những người kém may mắn hơn. Bác có của, Ba có công, nhiều thương phế binh VNCH, nhiều người tàn tật, các em bé mồ côi đã được trợ giúp vật chất đều đặn hàng năm.
Dù được ra đi theo chương trình HO từ năm 1990 nhưng Ba Mẹ từ chối không đi vì lúc đó chúng tôi đã ổn định ở quê người. Lúc qua thăm chúng tôi, Ba đã dành vài ngày về thăm Bác, thăm ngôi chùa nhỏ Bác đã tạo dựng ở Pennsylvania. Vì nợ áo cơm chúng tôi không thể đi theo để được chứng kiến cuộc hội ngộ của hai người bạn thân sau một phần tư thế kỷ. Nhưng nhìn những tấm hình chụp Bác và Ba ngồi trang nghiêm ngay ngắn trong hai cái áo tràng màu lam trước tượng Phật, dù tóc đã ngã màu sương khói, nhưng lưng vẫn còn thẳng như ngày xưa vẫn ngồi bên nhau trong áo lính màu olive trong lớp học Tham mưu cao cấp ở Dalat, mới thấy hết ý nghĩa của câu ngạn ngữ "tình bạn như rượu chát càng cổ xưa càng dịu ngọt”.
Nhờ Bác thuyết phục, những năm cuối đời, Ba đã thuộc được "Chú Đại Bi”, một bài kinh tiếng Phạn rất khó nhớ, vẫn được tụng niệm trong các khóa lễ của Phật giáo, mà Bác đã nằm lòng từ lúc còn học Tiểu học ở Hưng Yên.
Theo niềm tin của đạo Phật, từ lúc Ba mất đến 49 ngày, mỗi tuần ở quê nhà Mẹ vẫn phóng sinh một số chim se sẻ, bằng đúng số năm Ba sống trên đời để cầu nguyện cho Ba được vãng sinh cực lạc. Mỗi thứ năm, lễ hàng tuần cho Ba được tổ chức ở nhà bởi một thiền sư đã học Anh văn với Ba trong quá khứ. Cùng thời điểm, ở California lúc 8 giờ tối, và ở Texas lúc 10 giờ đêm thứ tư, chúng tôi và Bác vẫn đọc kinh địa tạng, kinh phước đức, và kinh thương yêu để mong Ba được thênh thang hạc nội mây ngàn mặc dù cả cuộc đời, Ba luôn hành xử theo lương tâm và lẽ phải.
Trong nỗi đau không cùng, chúng tôi có niềm tự hào về Ba. Ba không để lại cho chúng tôi một gia tài vật chất như nhiều người cha giàu có khác, nhưng chúng tôi đã được thừa hưởng từ Ba một gia sản tinh thần vô giá từ cuộc đời mực thước của Ba. Một cuộc đời luôn gắn liền với đức khiêm tốn và hạnh từ bi. Ba đã tha thứ cho ngay cả những người đã đày đọa Ba và bạn bè trong lao tù cải tạo.
Từ ngày Ba mất, hình như núi Thái Sơn trong tim của mỗi chúng tôi cao hơn, ngút ngàn, vô tận …
Nguyễn Trần Diệu Hương
(Father’s Day 2010)
(Để làm đoạn kết cho quyển hồi ký bìa xanh Ba viết riêng cho các con năm 2006 - Với lòng thương nhớ của Mẹ và tụi con).
NGƯỜI GIAO PIZZA ĐÊM HALLOWEEN
Đã vài năm qua, kể từ ngày lễ Halloween năm 2005, lúc nào bà Jenna cũng nhớ hình ảnh người giao pizza rất trẻ, chắc chưa đến tuổi hai mươi lúc đó, nhưng có thái độ chững chạc của một người đã đi hơn nửa cuộc đời, và có tấm lòng của một ông tiên trong những truyện cổ tích.
Thằng bé Kenny, cậu con trai duy nhất của bà năm đó vừa lên bảy tuổi vốn dĩ ngoan ngoãn dễ thương, có đôi mắt to tròn màu hạt dẽ, và hai gò má lúc nào cũng hồng hào đầy sức sống.
Một ngày bình thường như mọi ngày, đang làm việc trong văn phòng, cô giáo ở trường Tiểu học gọi điện thoại báo cho bà biết Kenny than mệt và nhức đầu, cô đã đưa Kenny lên phòng y tế của trường. Người y tá cho em uống thuốc Tylenon có mùi trái Cheryl dành cho con nít, nhưng chừng như thuốc không giúp gì được cho Kennỵ Em vẫn ôm đầu than đau. Ở tuổi lên bảy, học lớp hai, các em nhỏ học trò than bị nhức đầu, nghĩa là bị đau thật, không phải là lối khôn vặt, viện cớ để trốn học, tránh làm bài tập trong lớp như các cô cậu teenagers ở trường trung học.
Người manager của bà thông cảm với nỗi lòng của một người mẹ chỉ có một đứa con duy nhất, cho bà nghỉ trọn ngày hôm đó để đến trường lo cho Kennỵ Bà Jenna hối hả lái xe đến ngôi trường Tiểu học quen thuộc, mắt chăm chú nhìn phía trước, thời tiết đang ở giữa mùa Xuân, bầu trời trong xanh nhưng bà Jenna chỉ thấy hình ảnh Kenny với đôi mắt nâu nhạt trong veo, mà không thấy hoa lá muôn màu của thiên nhiên.
Bà đến trường Tiểu học, vào phòng Y tế, nhìn thấy Kenny với đôi mắt lạc thần và ủ rủ, đôi mắt không còn linh hoạt màu nâu nhạt, mả hình như đã trở thành lờ đờ màu xám. Bằng linh cảm và trực giác cúa một người mẹ, bà hiểu Kenny không bị cảm xoàng hay sổ mũi nhức đầu như em đã bị một hai lần trong đời.
Bà đưa cậu bé về nhà, ghé vào tiệm bánh pizza của con nít, mua một slice pizza chỉ có cheese va pepperoni, nhưng Kenny không ngó ngàng gì đến lát bánh pizza hãy còn nóng, bay mùi thơm lừng mà bình thường em vẫn ưa thích, mà vẫn nằm rủ rượi trên xe ở băng ghế sau, trán hâm hấp nóng.
Về đến nhà, bà Jenna nấu món soup gà, cò những mẫu mì hình 25 chữ cái, mà lúc khoẻ mạnh, bao giờ Kenny cũng vừa ăn vừa tìm những mẫu tự để sắp thành tên mình. Cậu bé chỉ nếm đúng có hai muỗng soup, rồi lại nằm xuống sau khi than thở với Mẹ:
- Mommy, con không muốn ăn, con đau trong đầu.
Bà cố ép Kenny uống vài ngụm sữa tươi kèm vài giọt Motrin để hạ sốt, chờ ngày mai đưa cậu bé đi Bác sĩ.
Sáng hôm sau, bà Jenna xin nghỉ thêm một ngày, đưa con đi khám bệnh ở ông Bác sĩ Nhi khoa vẫn theo dõi sức khỏe của Kenny từ ngày cậu bé mới chào đời. Ông Bác sĩ loay hoay nghe ngóng nhịp tim, hơi thở của cậu bé, rồi viết toa cho bà đi mua một ít thuốc trụ sinh cho con nít, và viết giấy gởi Kenny vào một bệnh viện nhi đồng ở địa phương để làm các xét nghiệm y khoa cần thiết.
Hôm đó ở bệnh viện về, không biết nhờ đã được vô nước biển, hay nhờ thuốc trụ sinh loại mạnh đã ngấm vào cơ thể, Kenny ăn được một chén soup, uống được nửa ly sữa nhỏ, rồi nhiệt độ hạ xuống ở mức bình thường không nghe cậu bé than nhức đầu. Bà Jenna ở nhà với con thêm một ngày nữa. Đến ngày thứ ba, Kenny tươi tỉnh lại, bà yên tâm hơn. Và con trở lại trường học, mẹ trở lại trường đời như đời sống thường nhật.
Tưởng chỉ có vậy, kiểu đau lặt vặt của con nít, mà hệ thống miễn nhiễm hãy còn non nớt, dễ bị nhức đầu sổ mũi khi tiếp xúc với vài loại vi khuẩn trong không khí. Nhưng không ngờ một tuần sau, khi Kenny đã đi học và ăn uống lại bình thường, giữa giờ làm việc, bà Jenna lại nhận được điện thoại lần này không phải từ trường Tiểu học, mà là từ ông Bác sĩ Nhi khoa mà Kenny vẫn là thân chủ của ông từ khi chào đời đến bây giờ. Ông mời bà Jenna đến văn phòng của ông, và rất khó khăn ông báo cho người mẹ trẻ chỉ có một đứa con duy nhất là kết quả xét nghệm và hình chụp từ lab gởi về cho thấy Kenny bị brain tumors. Bà Jenna gần như ngã quỵ khi nghe tin này, trần và nền nhà hình như liền nhau thành một mặt phẳng. Bà hy vọng mình nghe lầm. Nhưng bên tai bà, tiếng ông Bác sĩ Nhi khoa đã có hơn hai mươi năm trong nghề vẫn đều đều:
- Tôi xin lỗi phải báo tin không vui này cho bà. Ở tuổi của Kenny, các tế bào não phát triễn không bình thường là một điều rất hiếm khi xảy ra. Nhưng chúng ta vẫn còn hy vọng từ phương pháp chemotherapy (hóa học trị liệu). Tôi đã chuyển hồ sơ của cháu qua bệnh viện Nhi đồng. Từ tuần sau, mỗi tuần bà phải đưa cháu đến bệnh viện để hy vọng Y học có thể đẩy lui được sự phát triển vô trật tự của các tế bào não, và Kenny có thể khỏe mạnh lại. Bất cứ lúc nào, bà cần sự có mặt của tôi ở bệnh viện, xin cứ báo cho tôi biết. Nếu cần thiết, chúng ta có thể lấy thêm ý kiến thứ hai từ một Bác sĩ và một bệnh viện khác.
Rời khỏi văn phòng của vị Bàc sĩ, bà Jenna thấy trời đất tối sầm, mặc dù lúc đó là mười một giờ sáng một ngày cuối xuân đầu hè rực rỡ ánh nắng. Bà phải ngồi ở phòng đợi gần năm phút để lấy lại bình tỉnh trước khi lái xe tới trường học của con. Bà xin cho Kenny về sớm và chở con đến Bệnh viện Nhi đồng. Dù không có hẹn trước, nhưng nhìn vẻ mặt thất thần của bà Jenna và khuôn mặt nhợt nhạt, xanh xao của Kenny, nhân viên bệnh viện vẫn cho làm các công việc cần thiết để thẩm định bệnh tình của cậu bé.
Thương em nhỏ chưa đầy tám tuổI, đã xanh xao lại còn phải bị lấy máu, chụp hình scan đầu, vào ra hết phòng này đến phòng kia của bệnh viện, mặt mày nhợt nhạt mà vẫn không khóc, không rên như nhiều bệnh nhân khác cùng tuổi, nhân viên bệnh viện tặng Kenny một cây kẹo mút hình tròn có đường kính bằng cả gang tay của người lớn, và một con gấu bông trắng đang toét miệng cười.
Những ngày sau đó, bà Jenna xin nghỉ dài hạn theo chương trình FML (Family Medical Leave), ở nhà theo sát từng chi tiết nhỏ của sức khỏe Kennỵ Bà chìu theo ý con, hôm nào Kenny khỏe hơn, thích đi học, bà đưa con đến trường. Hôm nào cậu bé mệt, muốn ở nhà, bà quanh quẩn bên con, đọc truyện cho Kenny nghe, hay chơi game với con. Bản thân cậu bé không biết mình đang bị bệnh nan y, bạn bè ở trường cũng không biết, nhưng cô giáo biết nên cô kín đáo đối xử rất đặc biệt với Kennỵ
Nhà chỉ có hai mẹ con, ban đêm cậu bé ngủ, bà Jenna chỉ ngủ chập chờn và ra cầu nguyện trước tượng Chúa, trước di ảnh của người chồng đã bỏ mình trong cuộc chiến ở Afghanistan.
Một tuần chờ kết quả của bệnh viện dài như bảy thế kỷ với bà Jenna. Thông thường chỉ mất khoảng ba ngày để bệnh viện Nhi đồng cho thân nhân các em nhỏ biết kết quả xét nghiệm. Trường hợp của Kenny, bệnh viện đã gởi mẫu máu và nước tiểu của em đi hai Lab khác nhau, một của bệnh viện và một của bên ngoải để chắc chắn là kết quả xét nghiệm tuyệt đối chính xác. Hai kết quả đều giống nhau và đúng với hồ sơ bệnh lý mà người Bác sĩ Nhi khoa ở một phòng khám bệnh tư đã chẩn đoán cho em từ tháng trước: Kenny bị brain tumors, ung thư màng não thời kỳ thứ hai. Tuy vậy, còn nước còn tát, tỷ lệ bịnh nhân ung thư màng não được chữa lành, dù rất nhỏ, nhưng vẫn có, Kenny sẽ bắt đầu được chữa bệnh bằng chemotherapy từ tuần sau.
Lòng dạ của một người mẹ tan nát, nhưng bà Jenna cố giữ vẽ bình thản giải thích với con tiến trình chữa bệnh sắp xảy ra để Kenny hiểu và đủ sức chịu đựng với những lần đi chemo ở bệnh viện, sẽ rất là mệt nhọc và đau đớn, nhất là đối với một em bé bảy tuổi.
Ngay chính bà cũng phải đi gặp cố vấn tâm lý của bệnh viện để có đủ tinh thần đối phó với mọi chuyện. Người chuyên viên tâm lý cho bà Jenna một DVD về các bệnh nhân tí hon can đảm của bệnh viện Nhi đồng. Đó là những em bé xanh xao, mỏi mệt, đầu bóng lưỡng không còn một sợi tóc, vì bị đưa chất độc vào người để mong "dĩ độc trị độc" ngăn chận sự phát triển vô trật tự của một số tế bào, nhanh như một vết dầu lan trên giấy. Trên những khuôn mặt ngây thơ, dù hốc hác, vẫn có nụ cười nhờ sự chăm sóc tận tâm và lòng thương yêu trẻ em của các "thiên thần áo trắng" ở bệnh viện.
Trước khi Kenny chính thức bước giai đoạn chemotherapy, cậu bé được cho uống thêm rất nhiều vitamin và thuốc giảm đau để trợ lực cho cơ thể. Bà Jenna mở video của bệnh viện, hai mẹ con cùng ngồi coi. Dù tan nát ruột gan, bà cố gắng giữ bề ngoài bình thường để giải thích cho cậu bé hiểu về tiến trình chữa bệnh.
- Con thấy không, các bạn nhỏ ở bệnh viện rất can đảm, không sợ chích, không sợ bất kỳ một phương pháp chữa bệnh nào hết. Phải chịu khó như vậy một thời gian ngắn mới chữa được bệnh.
Kenny ngây thơ hỏi mẹ:
- Bệnh gì vậy Mommy? Có giống bệnh nhức đầu của con không?
. - Con người bị nhiều bệnh khác nhau. Nhưng dù bệnh gì đi nữa cũng phải chữa. Và cách chữa bệnh thường giống nhau.
Hai ngày sau khi coi video của bệnh viên, Kenny "dũng cảm" bước vào tiến trình chemotherapy, một mình đơn độc chiến đấu với sự tấn công của những tế bào não phát triển vô trật tự trong cái đầu ngây thơ non dại của em. Lúc bước vào phòng chemo, thấy mặt bà Jenna lo lắng buồn rầu, Kenny còn trấn an mẹ :
- Không sao đâu ! Con sẽ không khóc vì con sẽ can đảm như Ba lúc trước.
Giữ đúng lời hứa, và nhờ có thuốc giảm đau, Kenny không hề la khóc trong suốt ba tháng đi chemo, trung bình mỗi tuần một lần. Các bác sĩ, y tá trong bệnh viện rất ngưỡng mộ sự can đảm và sức chịu đựng hiếm có của em bé bệnh nhân chưa đầy tám tuổi. Nhất là những cô y tá, họ đã len lén quay đi chùi nước mắt khi nghe Kenny "hùng dũng" nói:
- Cháu đi chemo nhiều lần quen rồi. Cô không cần phải cho cháu đồ chơi. Để mấy con gấu bông này cho các bệnh nhân khác chưa quen. Cháu chịu được mà, vả lại ở nhà cháu còn nhiều đồ chơi lắm.
Kenny đã rất thành thật khi nói lên điều đó. Ở nhà cậu bé, nhiều đồ chơi gởi đến từ các thầy cô giáo và bạn bè ở trường Tiểu học, từ đồng nghiệp ở sở làm của bà Jenna. Mọi người biết tình cảnh đơn chiếc, một mẹ một con của bà Jenna kể từ ngày Ba của Kenny tử trận ở chiến trường Afghanistan. Mọi người cũng biết với y học đương thời, hy vọng chữa khỏi brain tumors rất mong manh, nên họ mang đến rất nhiều đồ chơi và bánh kẹo, tỏ rõ sự quan tâm dành cho cả mẹ và con.
Dù nỗi lòng của một người mẹ đang tan nát vì bệnh nan y của cậu con trai duy nhất, bà Jenna vẫn ghi nhận mọi ân tình dành cho hai mẹ con. Chỉ có một ân tình lớn nhất đến từ một người không quen biết, bà vẫn chưa, và có lẽ sẽ không bao giờ đền trả trực tiếp được.
Lúc đó là dịp lễ Halloween 2005. lúc đó căn bệnh bất trị của Kenny đã đến thời kỳ cuối, cậu bé nghỉ học đã gần hai tháng. Và vì không còn hy vọng, -dù là một thứ hy vọng nhỏ nhoi, le lói ở cuối đường hầm hun hút tối đen-, nên bệnh viện cũng ngưng luôn tiến trình chemotherapỵ Đời sống ngắn ngủi cúa cậu học sinh lớp ba chỉ còn được tính từng ngày. Bà Jenna đã xin nghỉ dài hạn không lương để được ở bên cạnh Kenny suốt ngày đêm.
Cậu bé yếu lắm rồi, không còn đủ sức đi lại, nằm cả ngày trên giường, xanh xao, gầy gò, như một chiếc lá khô cuối mùa thu sắp rời cành, nhưng cũng biết hôm đó là ngày lễ Halloween qua chương trình truyền hình dành riêng cho trẻ em.
Do vậy, Kenny đã yêu cầu:
- Năm nay con muốn mặc costume người đi giao bánh Pizza. Mẹ mua cho con một bộ nghe mẹ.
Trời mùa thu đã tối mặc dù chỉ mới hơn năm giờ chiều. Kenny không đủ sức ngồi dậy, nhà chỉ có hai mẹ con, bà Jenna không thể rời nhà đi mua costume cho con. Một thoáng suy nghĩ, bà gọi điện thoại đến một tiệm Pizza ở gần nhà đặt mua một cái bánh Pizza loại nhỏ và nhờ tiệm giao tận nhà. Như thường lệ, người nhận điện thoại ở tiệm bánh hỏi bà muốn mua loại bánh nào. Bà nhẹ nhàng:
- Loại nào cũng được. Tôi chỉ có một yêu cầu duy nhất là pizza được giao bởi một nhân viên mặc đầy đủ đồng phục của tiệm Pizza, có cả mũ để một em bé đang bệnh nặng được quan sát đồng phục của người giao bánh.
Chỉ hai mươi phút sau, người giao bánh đến với đầy đủ đồng phục, có cả bảng tên và mũ với logo của một một hệ thống lớn sản xuất bánh Pizza Ý kiểu Mỹ.
Đó là một thanh niên rất trẻ, chắc chưa đến hai mươi, mặt mày sáng sủa, hẳn là đã được nghe yêu cầu đặc biệt của bà Jenna, nên người giao pizza rất lễ phép:
- Cháu mang đến một cái pepporoni pizza loại nhỏ, loại mà đa số con nít rất thích. Bà không phải trả tiền, đây là quà cháu mang đến cho em. Bà có thể cho cháu vào thăm em được không thưa bà?
Bà Jenna đưa người giao pizza vào phòng Kennỵ Đang nằm thiêm thiếp, cậu bé cố gắng nhỏm dậy khi thấy người khách mặc đồng phục xanh nhạt như Kenny vừa thấy trên tivi nửa tiếng trước.
Người thanh niên giao pizza xin phép ngồi xuống cái ghế ở cuối giường, nhỏ nhẹ nói với Kenny:
- Em là Kenny phải không? Tôi thấy tên em trên mấy cái bong bóng. Nghe nói em muốn mặc đồ costume như tôi, nhưng trời tối rồi, có lẽ các cửa hàng đã đóng cửa. Ở tiệm Pizza tôi làm lại không có đồng phục cho con nít. Tôi mang đến cho em cái mũ mà tôi mới được phát hôm qua, tôi chưa đội lần nào, có lẽ em đội vừa. Hôm nay tôi tặng lại cho em, có cả logo trên mũ, Rất tiếc tên tôi không phải là Kenny để tôi có thể tặng cả bảng tên cho em. Nhưng đội mũ với logo là em đã có một phần đồng phục như Halloween costume mà em muốn. Tôi cũng mang đến cho em một cái pizza chỉ có cheese với pepperoni, cùng một hộp kẹo jelly bean đủ màu vì tôi không biết em thích màu nào? Em có thích không?
Kenny hớn hở gật đầu và ăn được một phần nhỏ của lát pizza, mặt mũi tươi tỉnh hơn. Tối hôm đó cậu bé đi ngủ với chếc mũ mới có logo của tiệm pizza đội trên cái đầu đã không còn một sợi tóc nào sót lại sau ba tháng trải qua tiến trình chemotherapy.
Một tuần sau lễ Halloween, đầu tháng mười một, -như một chiếc lá non còn xanh mơn mởn rời cành không giống quy luật tự nhiên-, Kenny vĩnh viễn ra đi, không còn được ở gần Mẹ, không còn có dịp trở lại trường học để học tiếp lớp ba. Nhưng cậu bé cũng không còn phải chịu đựng những cơn nhức đầu đau đớn do các tế bào não phát triển lộn xộn, bất bình thường; và được về với Ba ở cõi vĩnh hằng.
Sau mất mát to lớn đó, bà Jenna xin thôi viêc. Bà trở lại trường, học về tâm lý của trẻ em, và xin vào làm ở Bệnh viện Nhi đồng, nơi cậu con trai quá cố của bà đã có một thời là bệnh nhân và rất được các Bác sĩ, Y tá ở khu vực chemotherapy thương yêu.
Bà cũng chuyển toàn bộ số tiền hai ông bà đã bắt đầu để dành khi Kenny hãy còn là một bào thai trong bụng bà vào một quỹ từ thiện. Cậu bé không còn có dịp dùng đến số tiền đó nên ”College Fund” của Kenny trở thành một phần rất nhỏ của quỹ nghiên cứu về bệnh ung thư não, đặc biệt là cho trẻ con.
Ở bệnh viện, mỗi ngày, bà Jenna cố vấn tâm lý cho càc bậc phụ huynh và các em nhỏ không may bị bịnh nan y. Bằng cách xoa dịu nỗi đau của những người không may, bà thấy lòng bình an hơn, mặc dù mỗi lần bước vào phòng của Kenny, mọi thứ vẫn như cũ, kể cả cái mũ người giao pizza tặng em, một phần của bộ y phục Halloween cuối cùng trong cuộc đời ngắn ngủi của em. Và khoảng trống cậu bé bỏ lại trong lòng bà không bao giờ có thể lấp đầy được.
Thỉnh thoảng, bà cũng trở lại tiệm Pizza ở gần nhà, mặc dù người giao pizza có từ tâm ngày nào không còn làm ở đó, nhưng bà cũng bỏ tiền tip vào cái lọ thủy tinh đặt cạnh máy tính tiền. Số tiền tip đó đôi khi nhiều gấp hai số tiền bà mua pizza. Vì đâu đó, ở một góc ký ức, bà Jenna vẫn thấy đôi mắt rạng rỡ của Kenny và tẩm lòng của người giao pizza đêm Halloween năm 2005. Ngay cả trong khổ đau và mất mát, cuộc đời vẫn dịu dàng, êm ái hơn nhờ có sự quan tâm và tấm lòng dành cho người khác.
Nguyễn Trần Diệu Hương
Santa Clara, Halloween 2009
(Thanks J. for letting me to share your heartfelt story with the world.
Remembering the young boy who was born on Oct 17th)