- MGTT 22 - Tạ ơn Thầy Cô nhân Lễ Thanksgiving 2011
- MGTT 23 - Cô Đinh Thị Hòa
- MGTT 24 - Thầy Hiệu Trưởng Phạm Đức Bảo
- MGTT 25 - Thầy Anh, Thầy Em
MGTT 22 - Tạ ơn Thầy Cô nhân Lễ Thanksgiving 2011
Tháng 11 lại về với những lời tạ ơn tưởng như sáo ngữ nhưng vẫn làm nao lòng những người lái đò, nhất là khi lời tạ ơn xuất phát từ tâm thành của học trò xưa.
… Tạ ơn thầy đã anh minh.
Cùng cô đốt đuốc hiển linh tâm hồn.
Cho con lẽ sống thiệt hơn.
Khai tâm sông chữ, sóng vờn biển sâu…
Đỗ Công Luận
Dù đang ở một góc đời nào, thảnh thơi an nhàn hay vất vả lao đao, chs NQ vẫn có một thoáng tĩnh lặng trong tâm, để gởi lời tạ ơn đến quý Thầy Cô đã giảng dạy chúng ta một thời cắp sách.
Xin tạ ơn các đấng sinh thành đã nuôi dạy chúng ta nên người. Xin tạ ơn Thầy Cô đã giảng dạy cho chúng ta những kiến thức đầu đời suốt một thời thơ dại. Những lời cảm ơn trong tâm tưởng xin được diễn tả mỗi năm một lần bằng chữ nghĩa...
Nhân Thanksgiving 2011, xin được nghe các chs NQ: Trần Ngọc Danh, Nguyễn Ngọc Xuân, Đỗ Công Luận, Huỳnh Phước Minh, và Nguyễn Trần Diệu Hương viết ra lời cảm ơn đến các Thầy Cô đã giảng dạy chúng ta kiến thức và đôi khi cả đạo làm người.
TẠ ƠN THẦY CÔ
(Cảm xúc từ con dốc cũ đã đưa chúng em tới cổng Trường Ngô Quyền)
Nghĩ lại một thời vượt qua dốc cũ
Là biết nhọc nhằn công sức Thầy Cô
Thấy bảng đen vắt ngang thời thơ ấu
Nghe phấn rơi xao động tuổi học trò
Nhắm mắt lại, lời giảng bài vẫn rõ
Mở mắt ra, nhìn trắng lớp sương mù
Tiếng thời gian gõ đau vào trí nhớ
Gặp lại mơ hồ hình bóng ngày xưa
Bảng đen ơi, đừng giữ hoài im lặng
Xin vì tôi, nói hai chữ TẠ ƠN
Phấn trắng ơi, xin đừng rơi lãng mạn
Viết giùm tôi LỜI ÂN NGHĨA no tròn
Qua bờ xa, thấy đò còn đưa khách
Tim học trò đập vội tiếng ngân rung
Công người đưa đò dày hơn trái đất
Nhớ ơn hoài NGƯỜI đã chở qua sông!
TRẦN KIÊU BẠC
(Mùa Tạ Ơn 2011)
Năm lớp 6, học ở dãy lầu mới xây đầu thập niên 70, đối diện thư viện, chúng tôi học những giờ Kim văn đầu tiên ở bậc Trung học với Cô Nguyệt. Giọng Huế của Cô thanh tao chỉ dẫn cho chúng tôi cặn kẽ cách viết văn gãy gọn. Có lần nghe Cô kể về Tự lực Văn Đoàn hào hứng quá, cả một bàn đầu sát cửa lớp (Hồng Mai, Quỳnh Trang , và tôi) không hiểu tại sao không hẹn mà cùng "rung đùi" thích thú. Từ trên bục giảng, cô Nguyệt đến gần nhỏ nhẹ với cả bàn :
"Con gái đừng bao giờ rung đùi các em nghe! "
Mãi cho đến bây giờ, chúng tôi chưa bao giờ tái diễn hành động không duyên dáng đó.
Cũng ở lớp 6, Thầy Đức dạy bài hình học đầu tiên về các đường thẳng, đường cong. Cuối giờ, Thầy có thêm một câu ngoài phạm trù của môn Toán:
“Đường ngắn nhất giữa hai điểm bao giờ cũng là đường thẳng, các em nên nhớ đó như là một nguyên tắc làm việc sau này”
Những lời khuyên bảo đôi khi chỉ đơn giàn như vậy, nhưng học trò lớp 6 nhớ suốt đời. Lớn lên, mỗi lần được khen chững chạc , tôi vẫn thầm càm ơn Cô Nguyệt.
Bao nhiêu năm tháng trôi qua, những điều học được từ giờ Hình học ngày xưa đã dần dần nhạt nhòa theo năm tháng nhưng tôi vẫn nhớ nguyên tắc "đường thẳng là đường ngắn nhất" và đã đem áp dụng vào nhiều trường hợp, kể cả chuyện viết văn. Ít ai biết ông Thầy trẻ dạy Toán năm xưa đã gián tiếp hướng dẫn tôi cách làm việc, diễn tả ý tưởng hữu hiệu nhất.
Chưa có cơ duyên gặp lại cả Thầy Đức lẫn cô Nguyệt đề được cảm ơn bằng lời chân thành, xin gởi những dòng này để tạ ơn Thầy , Cô cũng như tất cả các giáo sư thời Trung học của chúng em.
Nguyễn Trần Diệu Hương
Thăm lại trường xưa
Về thăm lại trường xưa
Tâm hồn như trẻ lại
Nhớ từng khuôn mặt cũ
Thầy cô và bạn bè
Về thăm lại trường xưa
Nghe phấn kêu trên bảng
Nhớ dáng thầy cao gầy
Góc sân trường nắng nhạt
Về thăm lại trường xưa
Nơi một thời trẻ dại
Vẫn vang lời tha thiết
Từ tiếng cô giảng bài
Về thăm lại trường xưa
Kỷ niệm nhiều biết mấy
Về đâu dáng hao gầy ?
Người đưa đò năm cũ…
Huỳnh Phước Minh
Và cuối cùng xin tạ ơn bạn bè, đàn anh, đàn chị, đàn em, tất cả những người đã một lần mang phù hiệu Ngô Quyền trên áo trắng học trò Trung học. Cùng nhau, chúng ta đã dựng lại được cửa Khổng sân Trình ở khắp nơi trên thế giới, dù chỉ là trong tâm tưởng hay trên màn hình computer. Nhờ có anh, có chị, có bạn, có em, trường xưa vẫn còn đó, không nhòa.
BBT
MGTT 23 - CÔ ĐINH THỊ HÒA
Tác giả : Hoàng / Hương / Hải
Là một trong những giáo sư dạy ở Ngô Quyền từ lúc trường mới thành lập được một vài năm, cô Hòa còn dạy cả Việt văn lúc các chs NQ khóa 8 (1963-1970) mới vào Đệ Thất (lớp 6 sau này). Nhưng môn chính của Cô là Pháp văn, nên hình ảnh cô Hòa gắn liền với những bài học vở lòng, với những nhân vật trẻ con như học trò lớp 7 (Jean, Pierre, Marie...) trong quyễn "Francais Elementaire".
Cô hiền lành và rất thương học trò. Nghe nói có một anh học trò cũ đi lính bị thương nằm ở bệnh viện Phạm Hữu Chí, đi dạy về, Cô tất tả vô thăm như thăm một người thân yêu.
Học trò của Cô rất quý mến Cô. Sau trên dưới 40 năm, dù đang ở Châu Úc, Châu Mỹ, châu Âu, hay vẫn ở bên cạnh dòng Đồng Nai hiền hòa, các cô cậu học trò lớp Đệ Lục, lớp 7 năm xưa luôn nhớ đến cô giáo Pháp văn hiền dịu. Chưa có dịp gặp lại Cô Hòa, học trò của Cô thuộc rất nhiều niên khóa xin mượn "Một góc Thầy trò" để cùng bạn bè xưa nhớ lại một thời êm đềm trong các giờ Pháp văn năm lớp 7.
Và thưa Cô, dù trí óc đã "xanh rêu " cùng với tuổi đời gần gấp 4 thời còn là học trò NQ, tụi em vẫn còn nhớ để xin thưa với Cô . "Nous t'aimons", cô ơi !
BBT
Cô Hòa cùng những hạnh ngộ với Nghiêm Văn Hải
Hình như tôi không có khiếu viết chuyện về Thầy Cô, do bộ nhớ thiếu neuron thần kinh thì phải?! Ước chi tôi được hưởng một phần “gen" của Trương Đức Hoàng, người bạn cùng lớp năm xưa, mà tôi và Phạm Thị Hạnh vừa đặt tên là "ma xó" (vì bạn nhớ đến từng chi tiết sự việc trong lớp, xảy ra cách nay vài chục năm và họ tên Thầy Cô từ Thất 4 đến 11B4), thì tôi đã tìm cho mình một bài viết đáng giá cho mục "Một Góc Thầy Trò" trên web nhà. Đắn đo, đắn đo và chấp bút khi bạn Hạnh khuyến khích.
Thôi thì nhớ gì kể nấy!
Nghĩ cho cùng thì tôi cũng chỉ nhớ được những việc chung chung, không liên quan đến học tâp nhiều! Chỉ biết rằng, khi thi đậu Trung Học lần hai, tôi mới có hân hạnh chuyển từ trường Trung học Khiết Tâm qua trường Ngô Quyền. Tôi thật hạnh phúc biết bao! Vừa được gia đình cho nghỉ mát dài hạn (nhập học thì về) tại Vũng Tàu kỳ hè năm ấy, lại vừa được theo học tại ngôi trường Ngô Quyền nổi tiếng nhất vùng Đông Nam phần.
Trong suốt năm học đệ Lục 4 (lớp 7 bây giờ), nhờ học khá nên tôi cũng "ẳm" được phần thưởng. Ngày ấy, tôi vui sướng ôm chặt phần thưởng và chăm chăm chỉ chực chạy ra cổng, lấy xe đạp lao về nhà, báo công với Cậu Mợ (đại danh từ chỉ Bố Mẹ). Chợt có cánh tay ai đó nắm ghì lại, giật mình nhìn lên, tôi thấy cô Đinh Thị Hòa dạy Pháp văn, Cô cười thật tươi và xoa đầu tôi như khen ngợi! Cô còn dặn dò không được chạy, và về nhà cẩn thận! Còn gì vui hơn khi được Cô khen, người tôi như run lên, chỉ biết chào Cô một cách lấm lét (thời ấy, học trò tuổi chúng tôi rất tôn sư trọng đạo, xem Thầy Cô chỉ sau Ba Mẹ). Từ năm đệ Thất đến đệ Ngũ 4, những Cô tôi vừa thương, vừa sợ là hai cô Nguyễn Thị Nguyệt và Trần Thị Hương. Riêng Cô Hòa thì tôi không sợ lắm. Chắc tại thấy Cô hiền?! Tôi nhớ mãi, giọng Cô luôn nhẹ nhàng, nhỏ nhẹ khi giảng bài. Những bài học luôn đi kèm với cặp mắt dịu hiền, đằm thắm, hướng về chúng tôi. Và tuyệt vời nhất là ít khi Cô la rầy học sinh!
Ngày rời trường, rời núm ruột kiến thức phổ thông đầu đời, để bước vào những lo toan cho sự học tiếp nối, tôi như quên bẵng đi những kỷ niệm xưa. Hình ảnh Thầy Cô như nhạt nhòa dần do tất bật mưu sinh, nhưng những tin tức rời rạc về Thầy Cô đã mất, hay gặp khó khăn thỉnh thoảng lại gây xốn xang trong lòng tôi!
Ngày gặp lại cô Hòa, khoảng năm 1979-1980, chỉ là tình cờ khi đến chơi nhà bạn ở Cây Chàm. Dáng cô vẫn thanh thoát, tuy có ốm hơn trước. Tôi đã hỏi thăm và đến nhà Cô trong con ngõ nhỏ. Cô vui vẻ kể chuyện gia đình. Bẵng đi một thời gian, gặp lại Cô trên đường, Cô tiều tụy hẳn, hỏi ra tôi mới biết, Cô vẫn còn đau buồn vì đã mất một trong bốn người con.
Đến năm 1989-1990, tôi gặp Cô lần nữa trong lúc Cô "bỏ mối" thuốc lá, còn tôi bán quán cà phê "cóc" ở ngã ba Phường Quyết Thắng. Cô và trò gặp nhau trong cảnh ngộ xót xa: Cô thì đạp xe "lóc cóc" bỏ mối, tôi thì "khố rách áo ôm, nghèo xác nghèo xơ"! Tôi chỉ biết ngậm ngùi nhìn và nhận thuốc lá từ người Cô mà mình yêu mến! Tôi có mời Cô uống nước mỗi lần gặp Cô trong khoảng nửa năm đầu. Đa phần, Cô từ chối hoặc họa hoằn lắm là uống ly nước lọc. Có lẽ Cô thương vợ chồng tôi, buôn bán khó khăn (cả buổi chỉ bán được chục ly cà phê) nên Cô ngại chăng?! Tôi cũng không dám hỏi nhiều về hoàn cảnh của Cô, vì sợ sẽ gợi lại ký ức đau buồn! Những lần giao thuốc xong, Cô nhoẻn miệng cười hiền với nụ cười đã có phần héo hắt. Dăm ba câu thăm hỏi xong, Cô lại lọc cọc đạp xe ra về và lúc nào cũng thế, tôi luôn nhìn theo cho đến khi bóng dáng mảnh mai, ốm yếu của Cô khuất hẳn ở cuối ngã ba đường. Ôi! Cảm thương Cô và cảm thương cho sự bất lực của tôi quá, vì đã không giúp được gì cho Cô! Nửa năm sau, tôi không còn gặp lại Cô nữa!
Sau đó vài năm, tôi đến xóm Cây Chàm hỏi thăm thì Cô đã dọn nhà đi mất. Chỉ khi đọc bài của Trương Đức Hoàng thời gian gần đây, tôi mới hay Cô về Tân Mai ở với gia đình con trai út. Cuối năm 2002, bạn tôi đến tìm thì Cô lại dọn đi và hiện giờ không biết Cô đang ở nơi đâu?! Nếu bạn Hoàng từ xứ xa có về Việt Nam, nhớ cùng tôi kiếm bằng được nhà Cô nhé!
Nghiêm Văn Hải
Biên Hòa , tháng 2/ 2012
Cô Hòa trong tâm tưởng Nguyễn Trần Diệu Hương
Hầu hết chs NQ có ngoại ngữ chính là Pháp văn đều là học trò của cô Đinh Thị Hòa. Cô dạy Pháp văn lớp 7 từ thời trường mới thành lập chỉ có các lớp đệ nhất cấp đầu tiên. Cô rất hiền, và giản dị nhưng đẹp, cái đẹp tự nhiên của hương đồng gió nội.
Hồi đó học với Cô, mười hai tuổi, chúng tôi vẫn còn là con nít nên được cô dạy dỗ nhiều điều ngoài những bài học vỡ lòng Pháp văn. Có lẽ vì lớp chúng tôi rất ngoan, mà cũng có thể vì chúng tôi là bạn học cùng lớp với Thanh Loan, con gái của Cô.
Riêng tôi, là bạn thân của Thanh Loan từ hồi còn học trường Nữ Tiểu học nên có dịp biết Cô lúc chưa đến 10 tuổi. Thời còn học lớp Năm, tôi có lần theo Thanh Loan về ngôi nhà cổ kính ở con hẻm bên cạnh trường Nữ Tiểu học, có hàng rào dâm bụt bao chung quanh. Đó là lần đầu tôi gặp Cô và gọi Cô là bác vì Cô là mẹ của bạn.
Lên lớp Bảy học Pháp văn với Cô, ngày đầu vô lớp, Cô đã thuộc tên gần nửa lớp, vì chúng tôi thỉnh thoảng vẫn đến nhà bạn chơi từ năm lớp Sáu.
Ngoài những bài Pháp văn vở lòng, Cô vẫn thường xuyên nhỏ nhẹ khuyên chúng tôi mỗi lần nghe gần 50 cái miệng con gái thi nhau... hét khi chơi u mọi, chơi nhảy dây... trong giờ ra chơi :
- “Con gái phải hiền dịu, nhỏ nhẹ, và có nết na.”
Những lúc như vậy, chừng như Cô không phài chỉ có một mà có đến 50 đứa con gái bằng tuổi nhau.
Cô dạy Pháp văn năm lớp 7/1 và là Mẹ của một đứa bạn cùng lớp chúng tôi, nhưng chưa bao giờ chúng tôi thấy Cô thiên vị. Có những bài thi Pháp văn, bạn của chúng tôi học bài không kỹ, vẫn bị "đội đầu" ít nhất là hai đứa trong bảng xếp hạng. Do vậy chúng tôi không chỉ học được một ngoại ngữ, mà còn học được lẽ công bằng từ Cô.
Lớn lên, dù cuộc đời nhiều lúc không công bằng, nhưng tôi luôn đối xử với mọi người rất bình đẳng vì tôi đã học được điều đó từ Cô giáo Pháp văn của ngày xưa ở Ngô Quyền.
Tháng 4 năm 75, tôi đột ngột xa trường, như cây non chưa bén rễ đã bị trốc gốc, chưa có dịp gặp lại Cô nhưng trong lòng tôi vẫn có một chỗ trang trọng cho Cô, như một số Thầy Cô mà tôi đặc biệt quý mến .
Sau này, nhìn hình Cô, trên Đặc san chs NQ 2004, tiều tụy như "nước còn cau mặt với tang thương", không những chỉ mỗi một mình tôi, mà các đàn anh đàn chị cũng ngậm ngùi thương Cô, nhớ đến hình ành Cô dung dị, hiền lành với nụ cười rất tươi trong những giờ Pháp văn năm xưa.
Bây giờ, tiếng Pháp của tôi chắc đã thoái hóa về trình độ "nói được một câu tiếng Pháp đúng văn phạm thì chắc là Tây đã về nước" nhưng tôi vẫn nhớ lời cô khuyên "con gái phải dịu dàng nết na" để thấy mình vẫn mãi mãi là cựu nữ sinh NQ, là phụ nữ Việt Nam dù đang sống ở bất cứ nơi nào...
Nguyễn Trần Diệu Hương
Santa Clara, tháng 3 / 2012
Hành trình tìm Cô Hòa của Trương Đức Hoàng
Sau gần 40 năm rời ngôi trường Ngô Quyền thân yêu, tôi vẫn luôn thương nhớ quý Thầy Cô và bạn bè xưa. Năm học lớp đệ Lục 4, lớp Bảy bây giờ, tụi tôi may mắn được học môn Pháp văn với cô Đinh Thị Hòa. Nói ''may mắn'' vì Cô vừa xinh đẹp, vừa dịu dàng lại thương đám học trò nhỏ lôi thôi lếch thếch, phá phách giàn trời. Hồi đó mỗi buổi chiều học với Cô là tôi có cảm tưởng như bầu trời trong xanh hơn, và nghe lòng rộn ràng với niềm vui khó tả. Nghĩ cũng lạ, lúc đó sao tôi thấy ham học và yêu đời yêu người, nhìn mấy đứa bạn nghịch ngợm hình như có vẻ... đứng đắn, chửng chạc hơn.
Sau năm này, tôi dần lên mấy lớp cao hơn và ít có dịp gặp lại Cô. Từ lúc lên Đại học tôi đi biền biệt cho tới năm 2001 mới về thăm quê nhà. Lần đó tôi đã đón xe buýt từ Sài Gòn về Biên Hòa. Sau khi xe qua khỏi Cầu Mới, đến Ngã tư Bửu Long thì tôi nhảy xuống. Tôi quẹo phải và đi lơn tơn qua cây cầu nhỏ ở Sở Cải về hướng chợ Biên Hòa. Khi gần tới xóm Cây Chàm, tôi sực nghĩ ''Tại sao mình không ghé vô thăm cô Hòa thử xem?''. Trong khi suy nghĩ như vậy, chân tôi đã quẹo trái vô xóm này. Đi chừng vài chục thước, tôi lại quẹo trái lần nữa để vào nhà Cô. Khi đến đây thì tôi hoang mang, có cảm tưởng mình như ông Từ Thức sau hơn 20 năm về thăm nhà, vì cảnh cũ còn đây nhưng gia đình Cô đã dọn đi từ lúc nào. Tôi thở dài ''Biết làm sao tìm Cô bây giờ?''.
Tôi bước trở ra đầu con hẻm nhỏ, với ý định hỏi thăm mấy người hàng xóm về tin tức của Cô. Tình cờ tôi gặp gia đình một người lớn hơn tôi vài tuổi. Sau khi trò chuyện một lúc, anh cho biết cô Hòa và người con trai út đã về khu cư xá mới ở Tân Mai. Anh sốt sắng lái chiếc xe Vespa cũ mèm chở tôi đi thăm Cô. Gặp lại Cô sao bao nhiêu năm, tôi rất vui mừng nhưng cứ lặng nhìn Cô mà nghe lòng rưng rưng. Sau khi kể về những tao ngộ và hoàn cảnh sống của mình, tôi hẹn sẽ quay trở lại.
Hai hôm sau, bạn Nguyễn Hồng Phúc đã chở tôi đi thăm Cô. Cô có cho hai đứa xem album hình của gia đình. Tôi nhìn không rõ nên phải mượn cặp mắt kiếng của Phúc. Cô mỉm cười dịu hiền nhìn hai tên học trò... già đang căng mắt để nhìn mấy tấm hình. Chắc Cô không ngờ có ngày gặp lại mấy cậu học trò ngây thơ, non nớt ngày xưa, bây giờ mắt đã hằn dấu chân chim. Sau năm này, tôi có về thăm nhưng Cô lại dọn đi. Từ đó đến nay, tôi không biết tin tức gì về Cô nữa.
Khoảng tháng 11/2011, bạn Nghiêm Văn Hải gởi thư cho tôi biết tin của bạn bè ở Việt Nam. Bạn cũng nhắc đến Thầy Cô với lòng mến thương, kính trọng. Bằng tấm chân tình, Hải đã viết về kỷ niệm với cô Hòa thật cảm động. Cách nay mấy ngày, nhìn mưa giăng giăng ngoài trời tự dưng tôi nhớ tới Cô và nghĩ ''Không có chuyện gì lớp mình làm không được hết''. Bắt đầu là bài viết của Hải, rồi tụi tôi bàn tính cách nào để tìm lại Cô.
Tôi đã mày mò gọi về hỏi anh Nguyễn Thanh Tùng ở Bửu Long. Anh cho tôi số điện thoại của anh Vũ Ngọc Giao và dặn dò ''Anh Giao biết địa chỉ của cô Hòa vì anh đã chở Cô về dự buổi họp mặt Ngô Quyền cuối năm 2011''. Tôi lại gọi cho anh Giao ở Sài Gòn. Anh đã cho tôi biết địa chỉ và số phone cũng như giải thích cặn kẻ cách liên lạc với Cô. Sau đó đến phiên Hải tìm được Cô, và sắp xếp để bạn Nguyễn Văn Tất lái xe đi rước Cô về dự ngày họp mặt lớp vào đầu tháng 4/ 2012. Tôi cứ tưởng tượng như vừa dự một cuộc đua tiếp sức, xong phần việc của mình thì ngồi chờ xem các bạn đem kết quả tốt đẹp về cho đội nhà vậy. Thật là một kết hợp diệu kỳ của mấy anh em 11B4.
Cô kính mến, bạn Nguyễn Hồng Phúc đã mất hơn 4 năm, sau đó lớp đệ Lục 4 lại có thêm vài bạn nữa ra đi. Dù ở phương trời nào, cậu học trò ngày xưa cũng tưởng nhớ đến Cô. Em cầu chúc Cô và các em Thanh Loan, Quang Danh, Quang Thảo và gia đình luôn được yên vui, hạnh phúc.
Xin chân thành cảm ơn ân tình của hai anh Nguyễn Thanh Tùng, Vũ Ngọc Giao và người anh ‘’chỉ một lần quen’’ ở gần nhà cô Hòa, xóm Cây Chàm.
Tôi thấy mình rất may mắn và hạnh phúc được học hành với sự chỉ bảo, dẫn dắt ân cần của quý Thầy Cô. Bây giờ tuổi đang gần tới cuối đời, thật diễm phúc khi tôi còn nghe tin và nhìn thấy hình ảnh của Thầy Cô và các anh chị em CHS Ngô Quyền ở khắp nơi trên thế giới.
Trương Đức Hoàng
Sydney, 7-03-2012
MGTT 24 - THẦY HIỆU TRƯỞNG PHẠM ĐỨC BẢO
Tác giả : Hoàng Mai/ Diệu Hương
Gần đây "trưởng tràng khóa 1" Phạm Phú Hòa từ Úc về công tác ở Việt Nam, có đến thăm thầy Phạm Đức Bảo. Anh gởi hình cho bạn bè cùng khóa. Và các anh chị cả khóa 1 đã chia sẻ với đàn em. Từ khắp nơi trên thế giới, chs NQ đã thăm Thầy trên computer với một chút ngậm ngùi về những dấu ấn thời gian trên Thầy, trên tất cả mọi người.
Và MGTT số 24 hôm nay dành riêng để vinh danh Thầy Hiệu Trưởng Phạm Đức Bảo, xem như tất cả chúng ta cùng về Saigon để chúc thọ Thầy như lớp 12B3 (khóa 13) đã thay mặt đàn anh, đàn chị và đàn em đến thăm Thầy với ngọt ngào của bánh và màu sắc của hoa.
Xin được ghi lại những nét chính và những mẫu chuyện vui, đáng nhớ trong suốt những năm tháng là một nhà giáo của Thầy Phạm Đức Bảo qua ngòi bút cùa Diệp Hoàng Mai.
Để cùng đọc lại kỷ niệm giữa Thầy và trò cùa Thầy Bảo và chs NQ khóa 7 Diệp Cẩm Thu (cũng là một nhà giáo có trên dưới 40 năm miệt mài trên bục giảng) .
Đầu thập niên 1990, từ Đức qua thăm Mỹ, Thầy Bảo ghé qua miền Bắc California và được chs NQ đón Thầy bằng chân tình của học trò Ngô Quyền mắt sáng môi tươi của thủa nào. Gần 20 năm sau, Nguyễn Trần Diệu Hương đã ghi lại tình cảm NQ với Thầy Hiệu trưởng trong hội ngộ Thầy trò ở San Jose.
MGTT số 24 được thực hiện không những với tinh thần "Tôn Sư Trọng Đạo" mà còn bằng tất cả tấm lòng, tình thương yêu, sự quý mến, trân trọng của ChsNQ dành cho Thầy Hiệu Trưởng Phạm Đức Bảo, người đã đóng góp rất lớn trong quá trình xây dựng và phát triển trường Trung học Ngô Quyền.
THẦY PHẠM ĐỨC BẢO - CUỘC ĐỜI MỘT NHÀ GIÁO
Diệp Hoàng Mai
Hình chụp Thầy Phạm Đức Bảo (năm 2006) và (năm 2010)
Thầy Phạm Đức Bảo kể: “Cuộc đời dạy học của tôi đơn giản lắm! Tốt nghiệp khoa Sử Địa Cao đẳng Sư phạm Hà Nội năm 1952, bắt đầu sự nghiệp trên bục giảng trường trung học Hồ Ngọc Cẩn (Bùi Chu), (thời đó Hà nội chưa có Đại học Sư phạm). Năm 1954 vào Nam dạy ở Phan Thiết hai năm, chuyển về trường Quốc Học (Huế) dạy tiếp sáu năm. Làm hiệu trưởng trường Ngô Quyền (Biên Hòa) mười ba năm. Hai năm cuối cùng làm thanh tra Sở học chánh và Bộ giáo dục. Chỉ có thế thôi!…”
Về thời làm trò, thuở nhỏ Thầy Bảo toàn học trường Tây. Sau năm 1975, Thầy trở thành “học trò” bất đắc dĩ bảy năm ở Bà Tô (Xuyên Mộc). Rời “trường cải tạo ", Thầy được con trai bảo lãnh sang Đức định năm 1984. Thầy tiếp tục học tiếng Đức suốt ba năm, để không bị “câm, điếc” nơi xứ người. Và bây giờ, Thầy vẫn đọc báo Time hằng ngày bằng tiếng Anh, với chiếc kính hiển vi để nhìn rõ chữ.
Thầy Bảo cười nhớ lại: “Hồi đó, không trường nào đông nữ giáo sư có chồng … lái máy bay như trường Ngô Quyền. Thì chồng các cô làm việc sân bay Biên Hòa, về dạy trường Ngô Quyền là gần nhất. Phải nhận về dạy thôi!...” Thầy còn trọng dụng đội ngũ giáo sư trẻ tuổi, luôn tạo thuận lợi để thu hút các giáo sư trẻ về dạy ở trường. Quan tâm tới Thầy Cô giáo, là do Thầy Bảo quan tâm tới học trò tỉnh lỵ Biên Hòa. Có đủ giáo sư giảng dạy, sẽ có đủ lớp học cho trò, sau khi trò thi đậu Tú tài một. Học trò Ngô Quyền không phải vất vả, về Sài Gòn học lớp đệ nhất, để thi tiếp Tú tài toàn phần.
Thầy Bảo một thời nổi tiếng cương trực, không kiêng dè một ai. Học sinh ở trường, bất kể là con nhà lính hay con nhà quan, cứ vi phạm kỹ luật học đường là bị nhận Vitamine R (Roi) từ Thầy ngay tức khắc. Các nam sinh dù ngoan hay … quậy, ít nhiều gì cũng có “kỷ niệm đau thương” từ những ngọn roi nghiêm khắc của Thầy. Thời đó có lẽ do nữ sinh Ngô Quyền… quá ngoan hiền (?!..), nên ít khi học trò con gái bị Thầy Bảo phạt đòn như những nam sinh.
Sau mười lăm năm lưu lạc trời Âu, Thầy Bảo quyết định trở về nhà. Người gần gũi Thầy Bảo nhất trong thời gian này là Thầy Trịnh Hồng Hải, từng là bạn học với Thầy Phạm Thăng Long, em trai của Thầy Bảo. Từ lúc biết tin Thầy Bảo trở về, nhóm học trò 12B3 (NK 68-75) chúng tôi, năm nào cũng tháp tùng Thầy Hải đến chúc mừng Thầy nhân ngày Hiến Chương Nhà Giáo.
Thầy Hải, Thầy Thiện, Thầy Bảo, Hoàng Mai (2011) Thầy Đào Đức Thiện và Thầy Bảo (2011)
Thầy Bảo và Thầy Trịnh Hồng Hải Anh Phạm Văn Chánh lớp 12B3 tặng hoa Thầy Bảo (2011)
Thầy Hải và học trò lớp 12 B3 thăm thầy Bảo (ngày 20 tháng 11, 2011)
Vẫn còn khá nhiều cựu giáo sư và cựu học sinh Ngô Quyền chưa biết thông tin về Thầy Phạm Đức Bảo, cứ ngỡ Thầy còn sinh sống ở nước ngoài. Đầu năm 2011, Thầy Đào Đức Thiện từ Mỹ về thăm quê, đã cùng Thầy Hải và chúng tôi đến thăm Thầy Bảo. Quý Thầy cùng nhắc lại những chuyện vui, ngày mới được Thầy Bảo nhận về trường. Nhắc về những ngày buồn khi rời trường bỏ lớp, cả những gian truân đã trãi trong cơn biến động nước nhà.
Cuối năm 2011, anh Phạm Phú Hòa (CHS.K1) đưa nhóm giáo viên Úc đến Việt Nam dự hội thảo chuyên đề giảng dạy tiếng Việt cho người Úc, anh mới hay tin Thầy Bảo đang sinh sống tại Sài Gòn. Quá bận rộn với chương trình hội thảo, sau giờ làm việc buổi chiều anh Hòa mới có thời gian trống chạy đến thăm Thầy. Thầy nheo đôi mắt già nua, nhìn “cậu” học trò xưa bây giờ bạc phơ râu tóc:
- Thầy ơi, còn nhớ con không? Con là Hòa, học sinh khóa 1 nè Thầy!...
- A! Có phải Phạm Phú Hòa đó không?
Niềm vui vỡ òa trong mắt của “cụ” học trò Phạm Phú Hòa. Tính từ lúc anh rời trường Ngô Quyền, hai thầy trò lạc mất nhau đã… 49 năm dài, cho đến nay mới bất ngờ gặp lại. Ấy vậy mà, Thầy Bảo vẫn nhớ đầy đủ họ tên của anh Hòa.
Thầy Bảo và anh Phạm Phú Hòa (2011)
Gần đây nhất là anh Đặng Vũ Vĩnh (CHS.K4) hiện sinh sống ở Melbourne, cũng đã hỏi tôi địa chỉ và số phone của Thầy Bảo. Từ lâu lắm rồi, anh không biết tin tức về Thầy. Anh chưa dự định bao giờ thăm lại quê xưa, nhưng anh hy vọng được nghe giọng nói của Thầy qua điện thoại. Hoặc ít nhất, cũng là món quà thay lời tri ân anh gửi đến Thầy hiệu trưởng, nhân dịp Lễ Tết hay sinh nhật của Thầy.
Còn nhớ lần đầu tôi rủ nhóm bạn học cũ thăm Thầy, vẫn có bạn thoáng ngại ngần:
- Thầy có nhớ mình là ai đâu mà tới?
- Cứ giới thiệu mình là cựu học sinh Ngô Quyền, Thầy sẽ biết liền! Mình nhớ Thầy, chứ Thầy làm sao nhớ hết học trò?...
Những lần sau thì bạn là người nhiệt tình nhất, mỗi khi chúng tôi rủ bạn thăm Thầy. Cũng như tôi bạn nghiệm ra rằng, chỉ một giờ được chuyện trò với Thầy, chúng tôi tích lũy cho mình quá nhiều kiến thức. Không nhận học phí, nhưng Thầy vẫn tiếp tục dạy cho đám học trò nhỏ ngày xưa, bao nhiêu là bài học sống ở trên đời…
Chín mươi hai tuổi, sức khỏe của Thầy Hiệu trưởng Phạm Đức Bảo không còn như xưa, nhưng trí tuệ của Thầy vẫn còn minh mẫn. Chúng tôi vẫn ghé thăm Thầy mỗi khi có dịp, bởi chúng tôi hiểu Thầy bây giờ như một “cây đa, cây đề” quí hiếm của trường trung học Ngô Quyền Biên Hòa, một ngôi trường từng trãi qua bao nhiêu biến động lịch sử, nhưng tình nghĩa Thầy trò vẫn hoài bền chặt keo sơn.
Tháng 04/2012
Diệp Hoàng Mai
Những mẫu chuyện vui về Thầy Phạm Đức Bảo
Thầy bao nhiêu tuổi?..
Khi biết ngày 23/12/1923 là sinh nhật của Thầy Phạm Đức Bảo, nhóm bạn 12B3 chúng tôi manh nha dự định tổ chức “thượng thọ” 90 tuổi cho Thầy vào tháng 12/2013. Nhưng tình cờ, tôi biết chính xác Thầy sinh năm Canh Thân 1920. Như vậy thì nếu tính luôn tuổi mụ, Thầy Bảo năm nay đã … 93 tuổi.
Theo cô cho biết, hồi xưa ông bà thường không làm tờ khai sinh liền, mà để hồi lâu sau mới trình làng xã. Cũng có khi chạy loạn khắp nơi, khi khai lại thì ngày sinh không chính xác. Vì vậy mà lúc sinh thời, cô Hà Bích Loan vẫn hay đùa : “Thầy Bảo không bao giờ nói tuổi thật của thầy đâu!...”
Địa chỉ nhà Thầy Bảo …
Thầy bây giờ già yếu, đi lại khó khăn, nhưng thầy vần kiên trì tập thể dục mỗi ngày. Thầy rất vui, khi có học trò cũ ghé thăm. Hiện nay Thầy đang cư ngụ tại nhà số 118/9 đường Trần Quang Diệu, phường 14, quận 3; Có thể gửi email thăm hỏi Thầy theo địa chỉ quynhanhpham@hcm.vnn.vn ;
Thầy hay nói vui: “Cóc chết ba năm, quay đầu về núi” là vậy. Tuổi già của Thầy giờ an vui, với sự chăm sóc chu đáo của cô. Phân nửa đàn con của Thầy, cùng đàn cháu nội ngoại sống chan hòa xúm xít quanh Thầy. Đến nỗi Thầy Trịnh Hồng Hải hay đùa: “ Tôi đoán nay mai con đường trước nhà anh, sẽ đổi thành tên đường Phạm Đức Bảo đấy!...”
Thầy Bảo “Hẹc – Quynh”…
Năm 2002 Thầy Bảo đến bệnh viện Pháp Việt tại Sài Gòn khám bệnh. Con gái của Thầy đợi hơn một giờ đồng hồ, vẫn không thấy Thầy trở ra. Quá lo lắng, cô gõ cửa phòng khám bước vào. Cô bất ngờ, bởi câu chuyện giữa hai người đang dòn như pháo. Thì ra vị bác sĩ là học trò cũ của Thầy ở trường Quốc Học.
Vị bác sĩ hào hứng kể cho con của Thầy nghe mẫu chuyện về Thầy Bảo … Hẹc – Quynh:
“ Em biết không, hồi đó Thầy cưỡi chiếc mô-tô thể thao đi dạy học trông thật … ngầu! Tướng Thầy to cao, beau (đẹp) trai lắm! Có năm Huế lũ lụt, cầu Tràng Tiền ngập nước, xe không chạy được. Thế là Thầy vác bổng chiếc mô –tô trên vai, cứ thế lội nước qua cầu. Học trò Quốc Học bọn anh kính nể quá, nên gọi Thầy là Hẹc-Quynh từ đó…”
Mô – tô đua … xe lửa?...
Ngoài biệt danh “Hẹc Quynh”, Thầy Phạm Đức Bảo còn được học sinh và đồng nghiệp trường Quốc Học Huế gọi là “Thầy Bảo Mô-tô”. Một lần Thầy Bảo được điều động vào Sài Gòn chấm thi Tú Tài, phương tiện vận chuyển bằng xe lửa. Lần đó các đồng nghiệp “thách đấu” với Thầy rằng:” Nếu Bảo đi vào Sài Gòn bằng mô-tô sớm hơn xe lửa, mỗi người sẽ… chung độ cho Bảo một ngàn đồng…” Thầy Bảo nhận lời … đua.
Sau khi dùng điểm tâm tạm biệt, cả… hai phe mô-tô và xe lửa cùng xuất phát lúc 7 giờ sáng tại ga Huế . Thầy Bảo “một mình, một ngựa … sắt”, chạy suốt một ngày đêm, chỉ dừng nghỉ ngơi ăn uống dọc đường. Khoảng 8 giờ sáng ngày hôm sau Thầy Bảo đến ga Sài Gòn đợi. Mãi đến gần 10 giờ sáng hôm đó, chuyến xe lửa từ Huế chở các đồng nghiệp của Thầy mới hú còi chậm chậm tiến vào ga.
Tôi hỏi: “Thầy… thắng độ, tổng cộng được mấy ngàn đồng hả Thầy?...”
Thầy Bảo: “Không lấy tiền, chỉ uống bia thôi!...”
“Thi đậu rồi! Về đi ...”
Thi Tú Tài 2 mới được vài ngày, Hoàng Oanh (ca sĩ) đạp xe đến nhà Thầy hỏi : “Thầy ơi! Con đậu không Thầy?...” Thầy đáp: “ Đậu rồi! Đi về đi…” Hoàng Oanh hí hửng ra về, không hề biết bài thi chưa chấm xong, lấy đâu ra kết quả mà Thầy bảo cô thi đậu?
Năm đó ca sĩ Hoàng Oanh – tên thật là Huỳnh Thị Thi – đậu Tú Tài 2 hạng Bình, một thứ hạng khá cao lúc bấy giờ.
Thầy Bảo cười: ”Cũng may nó thi đậu, lại đậu hạng cao nữa mới ghê chứ! Nếu không thì không biết phải nói sao với nó….” Tôi được biết thêm, nhạc sĩ Trần Thiện Thanh cũng từng là học trò cũ của Thầy ở Phan Thiết.
“ Con Tỉnh trưởng hả? Bốn roi …”
Năm đó bạn Lâm Quang Hưng – con trai của Đại tá Tỉnh trưởng Biên Hòa lúc bấy giờ – mặc chiếc quần không đúng màu xanh đồng phục học trò. Không may cho Hưng, Thầy Bảo đi ngang qua lớp trông thấy bèn gọi lại bạn lại:
- Này, ai cho phép mầy mặc quần màu này? Hai roi, lên đây!...
Thầy nhịp chiếc roi mây lên bàn. Các bạn trong lớp thấy vậy kêu lên:
- Thầy ơi! Nó là con của ông tỉnh trường đó Thầy!
- Thế à? Con tỉnh trưởng Lâm Quang Chính à? Thế thì… bốn roi!
Bạn Nguyễn Xuân Cường, con trai Thầy Giám thị Nguyễn Quang Hưng cũng từng bị “án oan” tương tự. Cường “can tội” … để tóc dài, mái lòa xòa phủ mắt:
- Này, tóc dài hả? Con của ông Giám thị Hưng phải không?
Thế là “con Giám thị” cũng cùng số phận với “con Tỉnh trưởng”, bốn roi luôn!...
Có thế mà cũng méc!...
Hồi Thầy Bảo còn ở Biên Hòa, nhà của Thầy đối diện với nhà của Thầy Dương Hòa Huân. Bên cạnh nhà Thầy Bảo, là nhà ở của một vị Trung tá Tiểu khu Biên Hòa. Hôm đó, con trai vị Trung tá rủ người bạn học đến nhà chơi. Nói đùa qua lại, cậu học trò trêu bạn:
- Chúc ba của mầy mau lên … cố Đại tá!?!...
Con trai vị Trung tá ức quá khóc òa, chạy sang méc Thầy Bảo. Thầy gọi cả hai lại hỏi:
- Ai cho phép mầy nói bố nó như thế?
Vừa hỏi, Thầy vừa “thưởng” cậu học trò một cái “ bốp!...”
Quay sang con trai vị trung tá láng giềng, thầy “ bộp!...” luôn cái nữa. Cậu nhỏ hết hồn, nín khóc. Thầy nói tiếp:
- Thế bố của mầy đã lên … cố Đại tá chưa? Có thế mà cũng méc!...
Tháng 04/2012
Diệp Hoàng Mai
(Ghi chép lại từ lời kể của cô Đàm Thị Tồn, em Phạm Thị Thanh Tú và bạn Phan Văn Chánh)
LỚP 12B3 NQ K13 CHÚC THƯỢNG THỌ THẦY PHẠM ĐỨC BẢO
Thầy Bảo, Thầy Trịnh Hồng Hải và lớp 12B3 (2012)
Từ lúc biết tuổi thật của Thầy hiệu trưởng Phạm Đức Bảo, nhóm bạn chúng tôi nôn nóng được chúc thọ Thầy. Một anh bạn người Hoa của tôi nói vui:” Người cao niên vượt qua ngưỡng 91 tuổi rồi, thì bất cứ ngày nào cũng … thương thọ hết…”
Thế là ngày 14/4/2012, Thầy Trịnh Hồng Hải lại đưa nhóm học trò 12 B3 CHS.NQ đến chúc Thượng Thọ Thầy Phạm Đức Bảo. Chỉ đơn giản một khóm hoa tươi, một chiếc bánh kem nho nhỏ ngọt ngào … lớp học trò cũ chúng tôi đã gửi đến Thầy Phạm Đức Bảo lời chúc thượng thọ với tấm lòng tri ân trân trọng.
Anh Đặng Vũ Vĩnh CHS.NQ khóa 4, hiện định cư tại Úc cũng điện về nhờ tôi kính biếu Thầy 100 AUS làm quà mừng thọ. Anh Vĩnh từng có những năm “làm học trò bất đắc dĩ, ở nội trú và học cùng lớp" với các Thầy. Cho nên dường như giữa anh và các Thầy cũng có một thứ tình cảm khác thiêng liêng gắn bó hơn, ngoài tình nghĩa Thầy trò trường Ngô năm cũ.
Thầy Bảo vui lắm! Thầy cười nhiều, chuyện trò nhiều với đám học trò nhỏ ngày xưa. Chúng tôi mong, Thầy Bảo sẽ nhận thêm được nhiều lời chúc thượng thọ của những cựu học sinh Ngô Quyền năm cũ…
Tháng 04/2012
Học trò 12B3 chs.NQ k13 1968-1975
Hình Thầy Bảo và lớp 12B3 trong ngày chúc Thượng Thọ của Thầy ngày 14/4/2012
Thầy Phạm Đức Bảo và những kỷ niệm...
Trong 13 năm dài làm Hiệu trưởng Trung học Ngô Quyền (1961-1974), Thầy Phạm Đức Bảo không còn trực tiếp giảng dạy như thời Thầy còn là GS ở Quốc Học (Huế), nhưng hầu hết các chs NQ ở Đệ Nhị cấp (lớp 10 đến lớp 12) đều có dịp học với Thầy một hay hai giờ khi Thầy dạy thế thay cho GS chính vì một lý do nào đó phải vắng mặt. Những lần như vậy, cả lớp "ngoan" và chăm học hơn bình thường vì Thầy là ông Hiệu trưởng với quan niệm "thương cho roi cho vọt" thường xuất hiện trong sân trường với cây roi dài lăm lăm trên tay. Hình ảnh đó trở thành một ấn tượng không nhòa trong ký ức cúa tất cà chs NQ. Ngày xưa, học trò NQ sợ Thầy hơn là thương Thầy. Sau này, trưởng thành khôn ra, hiểu ra "nhờ ai ta có ngày nay", hình ảnh ông Hiệu trưởng nghiêm khắc với cây roi dài chừng như trở thành hình ảnh ông tiên cầm cành dương liễu.
Nên cuối thập niên 90s , khi Thầy từ Đức qua Mỹ, ghé qua San Jose, chs Ngô Quyền miền Bắc đón tiếp Thầy rất nồng hậu với nhiệt tình của "thời mới lớn tuổi mười lăm, mười bảy" dù tóc của nhiều anh chị đã đổi màu. Đó là lần đầu tiên chs NQ miền Bắc họp mặt đông kín cả nhà hàng, những người đến trễ phải đứng ở ngoài hàng hiên.
Học trò thơ dại năm xưa đã trưởng thành, sự nghiệp vững vàng nên Thầy Hiệu trưởng không còn nghiêm khắc, không còn cầm theo cây roi. Nhưng học trò xưa vây quanh Thầy vẫn với lòng kính trọng như một thủa nào mắt sáng môi tươi với phù hiệu Ngô Quyền trên đồng phục học sinh. Đêm đó ở một góc San Jose, xa Biên Hòa nửa vòng trái đất, mắt thầy trò cùng lấp lánh niềm vui như những tinh tú trên trời vào một đêm đẹp trời cuối xuân đầu hè …….
Tháng 11/2010
Nguyễn Trần Diệu Hương
Đầu năm Đệ lục (sau này đổi thành lớp 7) tôi được Thầy Hiệu Trường Phạm Đức Bảo cho phép chuyển từ "trường quê" Tân Uyên về "trường tỉnh “Ngô Quyền” kèm theo "lời răn đe":
- Liệu mà học hành. Học không chăm, không giỏi sẽ bị đuổi về lại Tân Uyên.
Mười hai tuổi, học trò nhà quê ra tỉnh, tôi vừa sợ Thầy, vừa sợ bị đuổi ra khỏi trường nên hết sức chú tâm vào chuyện học. Có lẽ nhờ vậy mà tôi có căn bản vững chắc trong mọi môn học, đặc biệt là môn Toán, môn có hệ số cao nhất của bậc Trung học.
5 niên khóa trôi qua nhanh như bóng câu qua cửa sổ, mỗi cuối năm học tôi đều được phần thưởng nên không… “bị đuổi về Tân Uyên” và cũng chìm lẫn vào cả ngàn nam sinh áo trắng quần xanh ngoan ngoãn của ngôi trường công lập lớn nhất miền Đông Nam phần. Cuối năm Đệ Nhị B1 (11B1 sau này), tôi đậu Tú tài 1 ưu hạng nên Thầy càng nhớ tôi hơn. Xong bốn năm ở Sư phạm Toán, tôi được đi học thêm một năm ở Pháp, rồi về lại quê nhà. Ghé thăm trưởng xưa, tôi gặp lại Thầy, lúc đó không còn là Hiệu trưởng Ngô Quyền mà đổi về Khu Học chánh. Thầy vẫn nhớ cậu học trò nhà quê năm xưa nên mặc dù tôi không còn được ưu tiên chọn nhiệm sở như lúc mới ra trường Đại học Sư phạm, Thầy vẫn nhận học trò xưa vào dạy Ngô Quyền như Thầy đã làm với rất nhiều học trò cũ thời Thầy còn dạy Quốc học ở Huế (trong số này có quý Thầy: Tôn Thất Long, Thân Trọng Bình, Tôn Thất Để, Trần Phiên, và Lê Quý Thể đã từng dạy Toán ở Ngô Quyền)
Xin kính cảm ơn Thầy về tất cả những quan tâm Thầy đã dành cho học trò Ngô Quyền nói chung và em nói riêng. Lúc nào em cũng nhớ đến Thầy. Cầu mong Thầy luôn an lạc và vui khỏe như một thuở nào ở Ngô Quyền thân yêu.
Viết theo lời kể của Thầy Diệp Cẩm Thu, chs NQ khóa 7
Thầy Diệp Cẩm Thu
MGTT 25 - THẦY ANH, THẦY EM
Tác giả : Công Lan/ Diệu Hương
Bài này đã được phổ biến trên "Tuyển tập Ngô Quyền 2011" nhân Hội ngộ chs Ngô Quyền toàn thế giới lần 2 tại Westminster CA.
Rất nhiều chs NQ, đặc biệt là các anh chị khóa 1 là học trò của Thầy Hùng chưa có dịp đọc. Xin được giới thiệu trên trang nhà với hình ảnh mới nhất của Thầy Anh và Thầy Em.
Cũng xin mời gọi các anh chị chs NQ viết một bài Thầy Anh Thầy Em thứ 2 với hai Thầy dạy Toán Nguyễn Thất Hiệp và Nguyễn Bát Tuấn.
Dù chúng ta có lớn, có già đến đâu, đọc những kỷ niệm xưa, gặp gỡ những người bạn thời mới lớn, tưởng như tuổi thơ, tuổi trẻ vẫn còn quanh đây, trong tầm tay với...
THẦY ANH
Thầy Nguyễn Phi Hùng
Hôm nay nhận được thư Thầy Nguyễn Phi Hùng.
Hai mái đầu tóc muối tiêu chụm lại, bốn con mắt qua cặp kính lão lướt qua những hàng chữ thật gọn trên trang giấy trắng thông thường được gấp theo dạng viết thư.
Thư viết khá dài, nét chữ gọn và thẳng hàng, gần kín cả hai trang giấy. Thầy báo tin vừa tham dự buổi họp mặt năm mới Tân Mão 2011 do các cựu học sinh Ngô Quyền San Jose tổ chức. Những lời thăm hỏi sức khỏe, công việc, chúc bình an đến cả các cháu nội ngoại, thực sự đã làm hai đứa học trò cũ cảm động và thương kính Thầy vô cùng.
Ngày nay, với phương tiện thông tin điện tử, không gặp được trên điện thoại thì qua email, viết thư qua bưu điện là điều hiếm thấy và thật trân quí. Nhất là Thầy viết cho học trò cũ. Mà học trò thì tuổi cũng đã xấp xỉ bảy bó! Chúng tôi, từ khi đến mảnh đất tạm dung nầy có được phước lớn, thường nhận được thư từ quí Thầy học năm xưa.
Hai chúng tôi, cùng học chung ba lớp năm đệ nhị cấp, nên kỷ niệm trường lớp cứ gấp đôi người khác! Trường anh cũng là Trường em! Bạn anh cũng là Bạn em! Thầy anh cũng là Thầy em!
Thầy Nguyễn Phi Hùng là giáo sư Toán và là giáo sư hướng dẫn lớp chúng tôi ba năm liên tiếp. Thầy về Trường Ngô Quyền dạy Toán lớp Đệ Tam, trường lúc đó còn là cơ sở cũ, đối diện với bệnh viện tỉnh Biên Hòa. Với ba lớp đệ tam A, B1 và B2. Chúng tôi được học Toán với phương pháp “đệ nhị cấp” nghĩa là “nhanh và nhiều”, thêm vào “qua không trở lại”. Lớp Đệ Tam, thời đó thường được coi như nhàn nhã, vì vừa thi xong (và đậu) bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp, cần được dưỡng sức cho năm học sau để thi Tú Tài I. Phải nói học trò năm xưa (lười học) có lý do biện minh hay thiệt! Nhưng với Thầy, không thể “tà tà” do sự chăm sóc rất tận tình của Thầy.
Năm Đệ Nhị,về trường sở mới, khang trang, thoáng đạt hơn, chuẩn bị cho năm học quyết định: thi Tú Tài I ! Gọi là quyết định vì phải đậu Tú Tài I mới được lên lớp Đệ Nhất, không như lớp Đệ Tam, có thể thi rớt bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp vẫn được cho học, nếu đủ điểm trong năm học Đệ Tứ. Nhưng quan trọng hơn hết là đối với nam sinh,“ta hỏng tú tài, ta đợi ngày đi, đau lòng ta muốn khóc”.
Đi, đây là đi lính, mà lính thì có thể là Hạ Sĩ Quan (Trung Sĩ) nếu có bằng Trung Học, nếu không thì “đơ dèm cùi bắp” (binh nhì). Vận mạng học sinh ban B chúng tôi nằm trong tay các Thầy dạy Toán và Lý Hóa.
Tiếp tục “truyền thống” năm trước, có phần chặt chẻ hơn. Mùa thi năm đó, ngày thông báo kết quả, Thầy đến sân Trường Trung học Gia Long, Sàigòn nghe trên loa phóng thanh, đếm xem có bao nhiêu học trò của mình “vượt vũ môn”. Phải nói đó là một buổi chiều vui mừng lớn của Thầy trò chúng tôi: Lớp chúng tôi đậu gần hết, đến độ Thầy bảo:
-Thôi không hỏi người đỗ nữa, chỉ hỏi xem người hỏng thôi.
Năm Đệ Nhất Thầy chỉ dạy Hình Học vì hình như Thầy còn những lớp khác.
Bạn cũ cũng thưa dần.
Chúng tôi rời trường học, bước vô trường đời!
Kỷ niệm một thời áo trắng cứ theo tháng, năm mờ dần, mờ dần… khi cả Thầy và trò cùng quay theo bánh xe thời thế. Phải nói chính cuộc bể dâu đã làm đứng lại bước chân phân tán. Rồi thì lần lượt cơ hội đã cho Thầy trò liên lạc được nhau. Chúng tôi liên lạc được với Thầy chỉ trong vòng vài tháng sau khi đặt chân đến Mỹ.
Mươi năm trước, Thầy rất siêng viết thư cho chúng tôi, Hội Cựu Học Sinh Ngô Quyền thời anh Nguyễn Đức Hiền cũng nhờ thư của Thầy mà chúng tôi được biết. Năm 2002, chúng tôi, trong một dịp đi qua San Jose, đến thăm Thầy. Sau bốn mươi năm, gặp lại Thầy, xúc động, nghẹn ngào. Bao nhiêu vui buồn tự tiềm thức được nhắc lại. Ba năm sau, chúng tôi có cơ hội thăm Thầy lần nữa. Ngoài những thăm hỏi thường xuyên, Thầy trò nhắc lại những chuyện vui lớp học, những chuyện buồn trên xứ người, cứ thấy thời gian qua mau quá.
Mỗi lần được thư Thầy chúng tôi thường nhắc tính nghiêm trang của Thầy. Giáo sư Ngô Quyền thời đó đều phải cravate nghiêm chỉnh, cũng là để phân biệt với học trò. Thầy vẫn thường áo ngắn tay và cứ mỗi lần vừa ra khỏi lớp vào giờ chót là Thầy tháo cravate cho vào túi. Thầy rất đúng giờ, có lần đang đọc thông báo từ văn phòng đưa xuống thì chuông hết buổi học, học trò nhao nhao lên, Thầy vẫn cứ đọc đến hết và hỏi có hiểu không? Dĩ nhiên tụi học trò ồn ào “Không, không…”. Thầy bảo “Thông báo nầy mỗi lớp chỉ đọc một lần, các anh chị chưa hiểu thì chưa được về, chờ đưa đi đọc hết các lớp xong, sẽ trả trở lại, anh trưởng lớp sẽ đọc lần nữa”. Đến lúc đó thì tiếng ồn lên: “Hiểu, hiểu rồi Thầy”, và đám học trò ào ra khỏi lớp vì Thầy vừa nói xong là bước ra.
Chuyện nhớ nhiều nhất của chúng tôi về Thầy Nguyễn Phi Hùng là suốt ba năm học, dù đám “thứ ba” nầy chọc phá đủ cách, Thầy vẫn không hé một nụ cười, ngoại trừ một lần duy nhất, Thầy vừa há miệng lại vội đưa tay lên gãi má khi lũ học trò cùng gào lên “A! Thầy cười.”
Ngày nay cả Thầy và trò cùng nghỉ hưu trên đất người, cách xa quê hương nửa quả địa cầu; và nhớ, viết bằng khung cảnh ngôi Trường Ngô Quyền chỉ còn trong ký ức.
Đào Văn Công & Trần Kim Lan
Xóm Ngựa, Kentucky
Thầy Hùng và anh chị Công Lan
Thầy Hùng, Thầy Cô Hiệp và BTC họp mặt NQ lần 11
THẦY EM
Thầy Anh (Nguyễn Phi Hùng) cùng với các đàn anh đàn chị chs NQ khóa 1 có một chiều dài kỷ niệm ba năm Đệ Nhị Cấp, rất ngắn với đời người nhưng là cả gần một nửa học trình 7 năm Trung học.
Thầy Em (Nguyễn Phi Long) về trường Ngô Quyền sau khi Thầy Anh đã chuyển về làm hiệu trưởng một trường Trung học ở Long Khánh. Lúc đó mặc dù còn rất trẻ, Thầy Em tuy không nghiêm khắc như Thầy Anh, nhưng cũng dạy Toán cho học trò Ngô Quyền.
Anh Đào Văn Công (và chị Trần Kim Lan) đã chia sẻ với đàn em về Thầy của Anh , chúng tôi xin được phép kể lại một vài kỷ niệm trong một niên khóa được học Hình Học với Thầy của Em.
Lúc Thầy Nguyễn Phi Long dạy chúng tôi môn Hình Học ở lớp 8/1 thì tình hình đất nước đã bước vào giai đọan có nhiều biến động giữa thập niên 70s, nhưng trong khung cửa lớp Ngô Quyền, thế giới học trò của chúng tôi vẫn rất bình yên, như không hề có chiến tranh, không có mất mát, không có di tản, chia lìa…
Chương trình Hình Học năm lớp Tám đặt trọng tâm ở phần “Quỹ tích” mà những cô nữ sinh tuổi mười ba, nhất là những đứa không giỏi toán, vẫn đùa với nhau là môn học “Quỷ… sứ”. Ấy vậy mà lớp chúng tôi rất ngoan, là một trong những lớp học giỏi của khối lớp Tám, không bao giờ bị Thầy Long dùng đến… “chưởng phấn”.
Gần đây, lưu lạc quê người, có dịp gặp và nghe các đàn anh, đàn chị từ khóa 4 đến khóa 14 kể lại một số kỷ niệm với Thầy Long, mới thấy là Thầy cũng có nhiều tài ngoài nghề dạy Toán. Hồi xưa, các đàn anh đàn chị lúc còn học với Thầy Long, không dám lơ đãng, thả hồn “mộng mơ ngoài khung cửa lớp”, vì Thầy Long sẽ liệng một mẩu phấn ngay trước mặt người đang “thả hồn ngoài cửa lớp” để đưa đầu óc và tâm hồn của đương sự về lại với giờ Hình Học như hầu hết các bạn cùng lớp.
Mẫu phấn nhỏ còn sót lại của một cây phấn, nhỏ đến độ không còn có thể dùng được nữa, nhưng rất hiệu nghiệm và chính xác dưới “tầm ngắm” và cách chọi phấn của Thầy Long. Có lẽ nhờ vậy mà hầu hết học sinh của “Thầy Em” đều tập trung trong giờ Hình Học của Thầy.
Chúng tôi nghe kể mà cứ há hốc miệng, không ngờ ông thầy dạy Toán ngày xưa có “kỹ năng” của một người lính pháo binh. Chưa bao giờ Thầy dùng đến “chưởng phấn” với chúng tôi, chắc vì chúng tôi vừa ngoan, vừa chưa đến tuổi mộng mơ để thả hồn ra ngoài khung cửa lớp.
Hồi đó, cả lớp không hề thắc mắc điều gì về Thầy Long, ngoài chuyện Thầy ăn mặc rất “à la mode”, “fashionable”. Sau nầy, chúng tôi mới biết thời trang lúc đó là mặc áo quần chật, bó sát người. Thầy Long dạo đó còn trẻ, chắc chưa đến 30, và vẫn còn độc thân, nên dĩ nhiên là Thầy theo sát thời trang. Và cả lớp đã “lạm bàn” với nhau một cách “trật đường rầy”. Một đứa "đỉnh đạc" lên tiếng, cả một bàn gật gù đồng ý như đó là "chân lý":
-Chắc năm nay Thầy không may áo quần mới, mặc lại áo quần năm ngoái, nên bị chật, giống như mấy đứa không được may áo dài mới năm nay, mặc lại áo năm ngoái, áo dài vừa ngắn, vừa chật.
Học trò con gái vừa mười ba tuổi, chưa đủ khôn nên đã “bàn.. loạn” như vậy trong giờ ra chơi, dĩ nhiên không bao giờ Thầy Long được biết.
Mãi về sau, sau này, lớn lên, khôn ra, sau bao nhiêu năm đi tập thể dục, tôi nhận ra rằng đó là một cách đểThầy Long tự hào về “một tinh thần minh mẫn trong một thân thể tráng kiện” của mình. Có lần vui miệng kể lạichuyện xưa với quý Cô Hà Thị Nhung và Trần Thị Minh Tâm (hai trong rất nhiều giáo sư trẻ ở Ngô Quyền của chúng tôi thời nhỏ dại), các Cô đã cười vang về sự ngây thơ… vô… tội tình của học trò năm xưa và còn thêm:
-Nếu thật sự Thầy Long show off thì Thầy show off với quý Cô giáo còn trẻ, chưa lập gia đình, hay với các chị lớp mười hai chứ không phải là với tụi em đâu!
Còn nhớ, cô, trò đã cười vang nhưng sự kính trọng của chúng tôi với Thầy Long, với quý Cô vẫn còn nguyên như xưa, thời chúng tôi ngồi ở hai dãy bàn học nhìn lên quý Thầy Cô trên bục giảng.
Mới đây, được dịp thưa chuyện với Thầy Long đang ở Houston, Texas qua điện thoại, Thầy vẫn còn giữ nguyên lối xưng hô với chúng tôi, một lối xưng hô rất “Bắc Kỳ” đặc biệt của Thầy Long:
-Các cô, các cậu bây giờ đã hơn nửa đời người, tôi cũng già rồi cô Hương ạ!
Chưa được gặp lại Thầy Long kể từ tháng 4 năm 75, nhưng tôi nhận ra cái giọng quen thuộc của Thầy Em qua điện thoại. Thầy (và cả Cô Long) đã chia sẻ với học trò xưa đã nhiều kỷ niệm cùa đời sống tha hương, nhờ vậy mà tôi đã viết được “Bên kia đồi”, xem như một lời cám ơn đến Thầy Long, và để tưởng nhớ Thầy Phùng Thái Toàn.
Lâu lâu Thầy vẫn chuyển cho học trò cũ những E mail hay hay, những bài viết đặc sắc, giúp học trò phát triển cả tiếng Mỹ lẫn tiếng Việt.
Tiếp nối bước chân của Thầy Anh, Thầy Em cũng dạy Toán nhưng cười nhiều hơn Thầy Anh, và đã giúp chúng tôi có một khái niệm rõ ràng về “Quỹ tích”, xây dựng được một cách nghĩ và làm việc dựa trên nền tảng suy luận của môn Toán.
Cả học trò anh (chị) lẫn học trò em đều nhớ đến quý Thầy cũng như tất cả Thầy Cô đã dạy bảo chúng tôi thời mới lớn. Ngày xưa, chúng tôi học Toán từ quý Thầy; bây giờ, chúng tôi học được những kinh nghiệm sống quý báu từ quý Thầy. Dù là học điều gì đi nữa, mãi mãi quý Thầy vẫn là một trong những người đã hướng dẫn chúng tôi trên đường đời không phải lúc nào cũng bằng phẳng, thênh thang.
Nguyễn Trần Diệu Hương
Santa Clara, California
Viết thêm : Đầu tháng 7 năm 2011, tôi gặp lại Thầy Long ở hội ngộ chs NQ toàn thế giới lần 2 ở miền Nam California. Thầy bận công việc đến muộn (lúc buổi họp mặt đã gần kết thúc) nên các đàn anh đàn chị là học trò cũ của Thầy không có cơ duyên gặp Thầy.
Nhờ có hình Thầy gởi qua E mail nên tôi mới nhận ra được Thầy. Các anh chị khác chắc có chạm mặt Thầy, cũng không nhận ra được đó là Thầy Nguyễn Phi Long dạy Hình học ở Ngô Quyền xưa.
Giữa buổi họp mặt đông người, đầu óc tôi vẫn quay về lại với những giờ Toán năm xưa có hình ảnh Thầy Long đứng trên bục gỗ ở phòng học năm lớp 8 mà ước gì mình được sống lại một ngày của tuổi học trò hồn nhiên ngây thơ.
Thầy Cô Hùng và Thầy Cô Long họp mặt Tân Niên tháng 3, 2012 ở San Jose